23/06/2008
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHẠC LỄ PHẬT GIÁO NAM BỘ
Trong kho tàng văn hoá dân tộc Việt truyền thống vùng Nam Bộ, âm nhạc là một loại hình văn hoá đậm màu sắc dân gian nhất. Nghệ thuật diễn xướng cá nhân, diễn xướng nhóm của các làn điệu vô cùng phong phú trong đờn ca tài tử, vọng cổ, cải lương và nhạc lễ Việt trong các chùa Phật Nam Bo mang bản sắc văn hoá vùng Nam Bộ không thể pha trộn và nhầm lẫn với âm nhạc trong quan họ, Xoan … của vùng văn hoá Việt Bắc bộ và âm nhạc trong Bài Chòi, tuồng, Hò Huế của vùng văn hoá Việt ở miền Trung bộ. Mặt khác, nhạc dân gian người Việt ở Nam Bộ không cùng “gen “ với nhạc dân gian Khmer Nam Bộ, Chăm Hồi giáo Nam Bộ và âm nhạc dân gian Tây Nguyên, nhưng lại có dấu ấn phảng phất của âm nhạc “ hát Tiều “ (Triều Châu ),“ hát Quảng” (Quảng Đông ), song nó vẫn khác biệt với “ Hát Tiều” và “ Hát Quảng”.
Có người cho rằng, âm nhạc Việt truyền thống trong vùng văn hoá Nam Bộ xuất phát từ “ hát Tiều “, “ hát Quảng “ và “dù kê” của đồng bào Khmer Nam Bộ. Tôi cho rằng, cách nghĩ như trên không sai, nhưng chưa thật thoả đáng , mà “ hát Tiều” và “ hát Quảng” chỉ là nhân tố “ hoà nhập” còn xuất phát của đờn ca tài tử, vọng cổ, cải lương có lẽ phải từ “ “Hò Bạc Liêu”, “ Hò chèo ghe”, Hò “cống chùà “. “ Hò bản đờn”, “ Hò Đồng Tháp”, “ hò Bến Tre “ và “ nhạc lễ “ của Phật giáo Nam Bộ mà lâu nay ta ít quan tâm đi sâu nghiên cứu.
I . Phật Giáo Việt Nam có nhạc lễ và co diễn xướng nhạc lễ hay không?
Phật giáo có mặt ở nước ta vào khoảng hơn 2000 năm, nhưng lại là một trong 3 trung tâm truyền giáo lớn nhất vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á vào thời Đông Hán ( 20-220 sau công nguyên ). Đó là đô thị cổ Phật giáo ở Luy Lâu của đất Giao Châu (Việt Nam), đô thị cổ Phật giáo ở Lạc Dương thuộc đất Hà Nam ( Trung Quốc) và đô thị cổ Bành Thành ở đất Giang Tô vùng hạ lưu sông Trường Giang (Trung Quốc). Vaò thời kỳ này, các nhà sư Ấn Độ như Khâu Đà La (Ksucha), Kỳ Vực (Jivaka) và nhà sư người Hán là Mâu Tử (còn có tên là Mâu Bác) đã cùng nhau đến ở tại Luy Lâu của đất Giao Châu để nghiên cứu và phát triển đạo Phật ơ vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Như vậy, vào đầu công nguyên, đất Giao Châu của Việt Nam ngày nay là nơi quy tụ một số vị cao tăng Ấn Độ và Trung Quốc. Song, điều quan trọng hơn nhất là ở tại Luy Lâu, các vị sư nói tren đã qua kinh Pali do các vị sư người An Tức đến để vị sư người Hán là Mâu Tử biên soạn ra tác phẩm truyền giáo đạo Phật nổi tiếng bằng chữ Hán – tác phẩm Lý và Luận. Các vị sư Ấn độ và Trung Quốc sống ở đất Luy Lâu của Giao Châu (tức vùng đất Bắc Ninh ngày nay) đã dịch 15 bộ kinh chữ Phạn sang tiếng Hán, xây 20 bảo tháp (stupa) và có một tăng đoàn Phật giáo 500 vị sư đầu tiên của thế giới Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Âm nhạc Phật giáo Việt Nam có thể ra đời ở Luy Lâu trên đất Giao Châu (Việt Nam) khi Mâu Tử biên soạn sách truyền giáo Lý và Luận. Ở đó có đọc kinh, gõ mõ, đánh chuông, đánh khánh đá, khánh đồng như một cuộc diễn xướng hoà tấu giữa nhạc cụ gõ và diễn xướng nhóm bằng cách đọc kinh mà nhà sư Ức Nhĩ đã thực hiện gọi là phạn bối được ghi trong Luật tạng. Nhà sư Khương Tăng Hội, người Ấn Độ vào thế kỷ thứ III sau công nguyên đã mang nhạc lễ Phật giáo từ Luy Lâu của đất Giao Châu sang đất Trung Hoa và phổ biến cho các tăng đoàn và từ đó nhạc Phật lễ của Khương Tăng Hội lại truyền sang Nhật, Triều Tiên và quay lại Việt Nam mà ta thường biết dưới một loại hình âm nhạc Phật lễ tên gọi là “Nê Hoàn Bối” hoặc “ Nê Hoàn Phạn Bối” được phổ biến trong các thế kỷ thứ 6 -7 sau công nguyên. Cho đến thế kỷ XV, ở Việt Nam mới có các bản kệ quy định về âm nhạc Phật lễ hoàn chỉnh (xem bài kệ Đạo bảo tích kinh hay còn gọi là Phạn tán). Ở Việt Nam, âm nhạc lễ Phật có cái “gen” kỳ cựu nhất là âm nhạc Phật lễ các chùa vùng Tiên Sơn (Bắc Ninh ) mà nay còn thấy bóng dáng rõ nét trong lễ Phật ở Chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện thuộc vùng Luy Lâu xưa.
2. Nhạc lễ Phật Giáo của người Việt ở Nam Bộ xuất hiện từ lúc nào ?
Chúa Nguyễn Hoàng là một trong những người có công đưa đạo Phật vào phía Nam. Các chúa Nguyễn tiếp theo đã tạo ra cơ hội cho các nhà sư trong đạo quân Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu vào đất Nam bộ để phát triển Phật Giáo. Thích Đại Sán tức hoà thượng Thạch Liêm thuộc phái thiền Tào Động ở Quảng Đông (Trung Quôc) đã truyền giáo dưới thời chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) và có dấu ấn rõ rệt một thời trong quía trình phát triển đạo Phật ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Đạo Phật vào đất Nam Bộ là nhằm củng cố chính sách dinh điền của vua chúa nhà Nguyễn, đẩy mạnh khai thác vùng đồng bằng sông Cửu Long hoang vu và màu mỡ, xây dựng nền tảng kinh tế cho xã hội đàng Trong. Đồng thời, Phật giáo vào đất Nam Bộ cũng làm thoã mãn khát vọng của người dân đi khai hoang, xa quê cha đất tổ, đến ở vùng đất lạ hoang vụ có nhiều rắn độc, cá sấu, bệnh tật, ốm đau luôn uy hiếp mạng sống con người. Họ muốn có quốc thái, dân an, muốn có chỗ nương tựa tinh thần trong cơn hoạn nạn, muốn tránh tai họa và muốn có nơi cầu nguyện khi người thân ốm đau, bệnh tật, hoạn nạn hoặc qua đời. Chính vì vậy, Phật giáo có một vai trò tâm nguyện to lớn và sâu sac đối với người Việt khai hoang ở Nam Bộ trong lịch sử. Phật giáo đi đến đâu thì nghi lễ và âm nhạc Phật giáo đi theo đến đó. Nhưng,hơn 80 năm dười thời Pháp thuộc, nông dân Việt ở Nam Bộ rất nghèo nên những nhạc cụ Phật lễ như khánh đá, chuông đồng, thanh la, các loại mõ âm trầm và âm thanh cũng không có đủ, nhạc lễ Phật bị mai một và lụi tàn dần. Trong lúc đó, từ năm 1912, âm nhạc Tây Phương với những nhạc cụ hơi như hacmonica, sáo tây, violon, harmonium và ban nhạc Thánh Ca đã trở thành nhạc lễ trong các nhà thờ lớn ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn … Thanh niên học sinh đuợc học hát kinh thánh trong các trường nhà dòng để bổ sung vào các Ban Thánh Ca của nhà thờ.
Trước năm 1975, sinh viên trường Đại học Vạn Hạnh và dòng nhạc Trịnh Công Sơn cũng đã làm loé lên một dòng nhạc Phật Giáo với tư tưởng hoà bình , nhân ái, từ bi theo đạo Phat. Nhạc lễ Phật giáo cho đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng chậm phát triển và mai một so với nhiều tôn giáo khác ở nước ta, mặc dù Lê Mạnh Thát trong sách “ Lịch sử âm nhạc Việt Nam” ( NXB TP.HCM , 2001) đã có một điểm nhấn dư luận về nhạc lễ Phật Giáo ở Việt Nam.
3. Bảo toàn và phát huy lễ nhạc Phật Giáo Việt Nam ở Nam Bộ
Âm nhạc và ca múa tôn giáo có sức truyền cảm lớn và có sức thu hút mạnh đối với người theo tôn giáo hay không theo tôn giáo. Đặc biệt trong xã hội nguyên thuỷ tan rã, âm nhạc và ca múa mang tính thần linh là phổ biến trong não trạng của mọi người.
Do đó, các loại hình lễ hội và lễ hội Phật giáo là một loại hình văn hoá truyền thống mang nhiều dấu ấn của lịch sử, môi trường sinh cư lập nghiệp và tâm lý xã hội của các nhóm dân cư, đặc biệt là đối với các nhóm di dân như trường họp các nhóm di dân người Việt ở Nam Bộ trong quá khứ. Muốn hiểu con người Nam Bộ và những tâm lý ứng xử của họ trong đời sống xã hội, chúng ta cần phải có những dự án nghiên cứu về văn hoá vùng Nam bộ, trong đó nghiên cứu về âm nhạc dân gian và lễ nhạc Phật giáo người Việt ở Nam Bộ cần đặt ở vị trí hàng đầu. Bỡi vì, các loại hình văn hoá đã trường tồn với thời gian là vì nó có giá trị nhân văn cao. Chỉ có bảo tồn các loại hình văn hoá được dân gian lưu truyền như bảo tồn hiện vật lịch sử trong bảo tàng thì mới có thể nghiên cứu về nó để cải biên và phát triển nó. Có như vậy, nền văn hoá Việt Nam hiện đại mới ngày càng phong phú, càng đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh giao lưu và tác động của nhiều nền văn hoá trên thế giới đang diễn ra. Nghiên cứu đầy đủ, toàn diện để cải biên và phát triển là nhiệm vụ kết họp chặt chẽ giữa ba nhà : nhà hâm mộ và sưu tầm, nhà nghiên cứu khoa học và nhà tổ chức chỉnh lý, cải biên, để phục hồi và phát huy vào đời sống văn hóa hiện đại.
Giáo sư MẠC ĐƯỜNG
(Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội tại TP.Hồ Chí Minh)
Cập nhật ( 25/06/2008 )