* Nguyễn Đại Đồng Tháng 2 năm Đinh Mão (1927), tại chùa Long Khánh đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Huệ Quang với sư Thiện Chiếu bàn chuyện chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ. Nghe tin sư Tâm Lai trụ trì chùa Hang (Tiên Lữ Động tự) huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên khởi xướng việc thành lập Tổng hội Phật giáo nhằm thống nhất Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Khánh Hòa cử giáo thụ Thiện Chiếu ra Bắc liên lạc với sư Tâm Lai. Do nhiều lý do, chuyến ra Bắc của sư
Nội dung của tờ hóa 1. Ai là người lo đời, muốn làm việc cho đời? 2. Nước ta ngày nay cần phải chấn hưng Phật giáo. Mở đầu bài báo dài 12 trang, sư Thiện Chiếu trình bày các vấn đề về Khổ: “Biển khổ mênh mông, song mê bát ngát, sưa nay chúng sanh sa chân lỡ bước, lạc lối lầm đường mà phải phiêu lưu thất sở, phải điên đảo, phải trầm luân; nếu không thuyền từ tế độ, đuốc tuệ sáng soi thì biết bao giờ mới ra khỏi biển khổ ấy, sông mê ấy? Chịu cái khổ ấy là “Thân”. Thân khổ không gì hơn là ốm đau đói rét, các phương pháp chữa cho thân khổ là phương pháp của nhà khoa học. Tạo cái mê ấy là “Tâm”. Tâm mê mới sinh ra gian tà tội ác, các học thuyết chữa cho Tâm mê là học thuyết của các nhà tôn giáo. Phàm cái gì có nhân thì ắt phải có quả, bởi Tâm đã tạo mê nhân thì Thân phải chịu lấy khổ quả, đó là lẽ tự nhiên”. Trước câu hỏi: “Khoa học và tôn giáo có thể làm cho viên mãn được lòng yêu cầu hạnh phúc của nhân loại không?”. Sư Thiện Chiếu cho rằng, kiếp sống của con người chỉ khoảng mấy chục năm mà còn chịu không xiết những nỗi bất bình sôi gan tím ruột với chế độ cường quyền chuyên chế của bọn quân chủ, bọn tư bản, bọn đế quốc; luôn mong muốn được tự do, bình đẳng, huống hồ là ở dưới quyền chuyên chế của Thượng Đế kiếp kiếp đời đời! Vậy nên, nhiều người đã nổi lên làm phong trào cách mạng, tức là phong trào dân chủ và xã hội. Bên cạnh đó, nhà quân chủ lợi dụng thần quyền để đè nén ngu dân, bọn đế quốc lợi dụng tôn giáo để đi xâm lược, nên học thuyết của nhà tôn giáo đã chẳng những không viên mãn được sự yêu cầu về trí thức của nhân loại, mà lại còn làm thiệt hại cho nhân loại nữa. Huống chi, từ ngày “Tiến hóa luận” và “Vô thần luận” ra đời, thuyết “Thượng Đế tạo vật” đứng không vững, mà thế lực của nhà tôn giáo cũng không còn giữ được như xưa. Có lẽ rồi đây, nhân trí khai thông, dân quyền phát triển, nên thần quyền sẽ không còn trên địa cầu này nữa. Vì khoa học phát triển đạt thì tôn giáo phải tiêu diệt!… Khi Thân, Tâm đã quan hệ với nhau thì dù khoa học, dù là tôn giáo, danh từ tuy khác nhau, nhưng vì do lòng yêu cầu hạnh phúc của nhân loại mà sinh ra, thì cần phải đều hòa vưới nhau mới mong Thân khỏi khổ, Tâm khỏi mê. Cứ xem cái thuyết trên kia thì khoa học với tôn giáo lại không thể tương dung! Mà tương dung sao được? Vì nhà tôn giáo lập thuyết như thế không đủ lẽ cho người ta tin. Nói rằng Thượng Đế tạo ra nhân loại, vậy ai tạo ra Thượng Đế. Nếu không ai tạo ra Thượng Đế, thì nhân loại hà tất phải có Thượng Đế tạo ra? Nhà tôn giáo cũng là người như mọi người trên thế giới. đã là loài người thì ai cũng có tư tưởng, có tri giác, không đủ lí lẽ thì làm sao tin được? Mà có tin được chăng nữa, thì cũng chỉ là hạng người mê tín mà thôi. Sư Thiện Chiếu đánh giá vị trí của Phật giáo với khoa học như sau: Khoa học cứu cái “Quả”, cái “ngọn”, nghĩa là chỉ cứu cái “Thân khổ”; còn tôn giáo thì cứu cái “Nhân”, cái “gốc”, nghĩa là cứu cái “Tâm mê”. Nếu tôn giáo không thể sống nổi với thế giới khoa học ngày nay thì lòng người còn biết tin đau có chỗ an thân lập mạng? Nếu khoa học đã phát triển một cách phi thường, một mặc khí cụ giết người càng ngày càng tinh xảo, mặt khác giai cấp giàu nghèo càng ngày càng cách xa, thừa dịp lòng người đang chứa đầy những phẫn uất, bất bình, tất có những người chủ trương cực đoan, mưu phá thế giới này mà lập một thế giới khác. Cái ngày ấy đáng mừng hay đáng lo, thành công hay thất bại? Lời bàn của Từ đó sư Thiện Chiếu Kết luận: “Ấy đủ biết, dù khoa học phát đạt đến đâu đi nữa, chẳng những không lay động được cái căn bản nghĩa của Phật giáo, lại gúp cho càng tỏ càng rạng thêm lên, mà duy vật khoa học lại nhờ Phật giáo cứu cho khỏi cái nguy “tột lối cùng đường vậy”. Về khác biệt của Phật giáo với tôn giáo, Thiện Chiếu viết: “Tôn giáo sở dĩ không thích hợp với hiện đại tư trào là bởi cái thuyết “Oai quyền thưởng phạt” nó phản đối với cái nghĩa tự do bình đẳng” cho nên mới có người phàn nàn tôn giáo là “thuốc phiện” của nhân loại. Phật giáo thì không thể không có cái thuyết “tạo vật” không có chi gọi là thưởng phạt oai quyền, nói rằng: “Tam giới duy tâm”, nghĩa là cái hiện tượng như các thế giới, các loại hữu tình là do lòng mê vọng sinh ra, như sóng ở trong nước sinh ra vậy. Sóng thì có thiên hình vạn trạng, mà nước thì chỉ có một màu. Lòng mê muội gọi là chúng sinh, lòng sáng suốt gọi là Phật. Phật với chúng sinh chẳng khác, như nước với sóng không hai. Bởi cái lòng mê muội nên sáng suốt chẳng đồng, nên mới có cái: “giả danh” chúng sinh và Phật vậy thôi. Chúng sinh thì bị ràng buộc khổ sở, Phật thì giải thoát tiêu diêu. Mà Phật và chúng sinh đều tự lòng ta tạo ra, không ai thưởng mà cũng không ai tạo được. Cái hư không tuy mênh mông vô hạn đựng chứa các thế giới, mà ở trong cái lòng “sáng suốt” cũng như một nặt nước nổi lên mặt biển, thì có cái gì “nhốt” được lòng ta? Phật nói rằng: “Hết thảy chúng sinh còn trầm luân thì chưa chịu thành Phật”, xem thế đủ biết tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái” của Phật là dường nào! Tự do, bình đẳng, bác ái, mấy tiếng khẩu đầu của các nước văn minh đem đi gạt người đó, so với sự thực hành của chủ nghĩa “tự do, bình đẳng, bác ái” của Phật giáo khác nào như một vực một trời. Xem như nước Nga là một nước muốn phá hoại chế độ và tư tưởng hiện tồn đặng trở lại cái bình quyền nguyên thủy mà nay còn nghiên cứu Phật học tưởng chẳng phải là vô cớ, mà đủ chứng rằng đời còn văn minh lại cần phải có Phật giáo. Nói tóm lại, Phật giáo bao gồm hết thảy tôn giáo và triết học xưa nay, ngoài ra như luân lí học, giáo dục học, luận lí học, và các học thuyết như chính trị, pháp luật, mĩ học, thiên văn, bác vật, công nghệ, y học,… không học thuyết nào ra ngoài được Phật giáo vậy” Tiếp đó, sư Phật giáo Việt Phật giáo không những tuyên truyền giáo nghĩa cứu cái ác nhân mà còn làm những từ thiện sự nghiệp đặng cứu cái khổ quả hiện tại nữa. Tuyên truyền giáo nghĩa cứu cái ác nhân ấy là “pháp thí”, từ thiện sự nghiệp cứu cái khổ quả ấy là t”ài thí”, cái thuyền tế độ của Phật giáo chỉ có hai việc đó mà thôi. Pháp thí như trước kia vừa nói, hoặc diễn thuyết hoặc viết sách, kì cho được phổ cập các hạng người trong xã hội, còn tài thí thì cứu giúp đời trong cơn nguy biến như thiên tai nhân họa,… mà cần nhất là trong các cảnh chùa đã lập Phật học viện, Phật học xã rồi lại lập ngay bên trong chùa một cái trường công nghệ để dung nạp những con trẻ cô bần vừa biết nẻo tu tâm, vừa có nghề tự lập. Còn những chùa ở thôn quê, cũng nên chuyên về nông phố, ấy trong tăng giới ngày nay nên bắt đầu thực hành cái chính sách “công nông” vậy. Các cảnh chùa trong nước, đâu đâu cũng có Phật Học viện, học xã chuyên về giáo nghĩa, đâu đâu cũng có công trường, nông trường, nông trường chuyên về thực nghiệp mà tự giác tự lập được rồi thì mới hoàn toàn tiêu diệt được các tệ tục xưa nay”. 3. Khính cáo các sư cụ: Tác giả 4. Kính cáo các tín đồ: Tác giả 5. Nhập học vấn đáp: Tác giả 6. Bài vấn đáp của ông Lương Khải Siêu tại phật giáo Tổng hội nước Tàu do 7. Một buổi hội nghị ở chùa Linh Sơn: Tác giả Huệ Thanh cho biết, chiều ngày 16/7/1929, tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn, đã diễn ra hội nghị Tăng già, gồm các vị Hòa thượng các chùa Từ Ân, Hội Khánh, Phú Long, Long Huê, Văn Thánh, Chúc Thọ, Thập Phước, Đức Sơn, Bình Long, Lý Dương Sanh,… dưới sự chủ trì của Hòa thượng Khánh Hòa, trụ trì chùa Linh Sơn, sư Thiện Chiếu và ông Trần Nguyên Chấn – giúp việc dinh Đốc lí Sài Gòn, hộ chủ chùa Linh Sơn – bàn về việc chấn hưng Phật giáo. Commis Chấn phát biểu đầu tiên, cho biết: Năm 1923, ông thỉnh sư Thiện Chiếu làm giáo thọ trường “Hạ” tại chùa Chúc Thọ, Gò Vấp. Ở đó, Thiện Chiếu định tổ chức Phật giáo Thanh niên học hội, nhằm đào tạo nhân tài đảm đương Phật pháp. Nhưng, Hội ấy không thành lập được bởi sư Tiếp Sau, sư Thiện Chiếu phát biểu làm rõ thêm lí do ông giao lại chùa cho Commis Chấn và nêu quan điểm của ông về chấn hưng Phật giáo là “chống các hủ tục ở bên trong và tà thuyết ở bên ngoài bấy lâu nay làm cho lu mờ cái nhân nghĩa của Phật giáo, ngăn lấp cái đường sáng suốt của chúng sinh”. Hòa thượng Hội Khánh thay mặt các vị Hòa thượng tham dự hội nghị, trả lời vắn tắt: “Các ngài có nhiệt tâm như thế, chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm, nhưng các ngài cứ lo tiến hành, còn phần chúng tôi thì xin để cho chúng tôi suy nghĩ lại”. Như vậy, có thể thấy, nội dung bài báo đã cung cấp nhiều tư liệu quý về hoạt động chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Qua bài viết này, chúng ta có thể suy luận tờ Phật hóa Tân Thanh niên ra đời vào cuối năm 1929, ngay sau khi tờ 8 . Chương trình chùa của “Phật hóa Tóm lại, có thể nói, Phật hóa Tân Thanh niên đã thể hiện rõ tư tưởng Phật giáo cấp tiến của giới tăng sĩ trẻ, mà sư Thiện Chiếu là đại biểu, trong phong trào chấn hưng Phật giáo nữa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam. Cùng với tờ __________________________ *. Nhà nghiên cứu , 1. Nội dung Pháp Âm có chín yếu mục: 1. Mấy lời bày tỏ, 2. Bàn về Phật học, 3. Phật giả, 4. Tự trần; 5. Những điều cần thiết cho người tại gia tín ngưỡng Phật giáo, 6. Phật giáo luân lí học, 7. Ai tri âm đó biết cho ai!, 8. Văn uyển, 9. Hành trình nhật ký đi cổ động cuộc sáng lập Tòng lâm Phật giáo hội. Trong đó, sư 2. Phật hóa Tân Thanh niên có khổ 14 x 20 cm, dày 49 trang yếu mục và bìa. In tại nhà in Thạnh Thị Mậu, 186 Rue d`Espague, Sài Gòn, phát hành tại chùa Chúc Thọ, xóm Thuốc, xã Hạnh Thông, gò Vấp (Gia Định). |
Cập nhật ( 17/04/2009 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com