HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM TRONG TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT
* TS. Thích Phước Đạt
Phó ban Văn hóa Trung ương GHPGVN
Không phải ngẫu nhiên, những trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm ra đời truyền bá Chánh pháp mang đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, là nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo Nhất tông trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã có trước đó, đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, cũng là mô hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên cho các tổ chức Giáo hội sau này. Bài viết tập trung viết về những hoạt động hoằng pháp độ sinh Thiền phái Trúc Lâm trong tiến trình hình hình thành và phát triển Phật giáo Đại Việt, góp phần định hướng cho công tác hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam trong thời hội nhập.
1. Xây dựng những Trung tâm hoằng pháp Giáo hội
Căn cứ vào tài liệu Tam Tổ thực lục, Tam Tổ hành trạng, Thiền Tông bản hạnh, Thánh đăng lục, chúng ta thấy tiến trình hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm có một bề dày lịch sử trong lịch sử Phật giáo Đại Việt. Trong bối cảnh lịch sử truyền thừa của Thiền phái, Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Thánh Tông được khẳng định là những gương mặt thiền gia đắc pháp tiên phong đặt nền móng tư tưởng và kết nối cho Thiền phái Trúc Lâm ra đời. Trần Nhân Tông là người có công làm cho Thiền phái Trúc Lâm đi vào hiện thực đời sống sinh họat Phật giáo thiền từ mô hình hoạt động, cơ cấu tổ chức cho đến nội dung tu tập và phương thức hành trì được cụ thể hóa. Ông trở thành vị Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm, sau đó đại sư Pháp Loa được Trần Nhân Tông truyền y bát làm Tổ thứ hai. Và người thứ ba được truyền trao làm Tổ thứ ba chính là tôn giả Huyền Quang. Cả ba vị này được tôn vinh là Trúc Lâm Tam Tổ.
Điều đáng nói là cả ba vị Tổ đều lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm truyền bá Phật pháp của dòng thiền Trúc Lâm vào đời Trần. Cũng từ ngôi chùa này, nơi phát xuất đích thực dòng thiền Trúc Lâm, mà sau đời Trần dòng thiền này theo dòng chảy của lịch sử của Phật giáo Việt Nam, chùa Vĩnh Nghiêm tại TP. Hồ Chí Minh được thành lập vào năm 1964, sau đó là một loạt chùa thuộc hệ thống chùa Vĩnh Nghiêm đất Bắc tại miền Nam ra đời; tiếp đến là sau sự kiện thống nhất đất nước vào 1975, Hòa thượng Thích Thanh Từ đứng ra kiến thiết một số chùa ở miền Nam để góp phần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm trong thời hiện đại.
Theo Hòa thượng Thích Thanh Kiểm thì “chùa Vĩnh Nghiêm được kiến lập vào đời vua Lý Thái Tổ (1010 – 1028), kiến trúc thuần túy Á đông và được trùng tu nhiều lần. Cảnh trí tôn nghiêm, tráng lệ tráng lệ hiện nay là do vào năm Thành Thái nguyên niên (1889), Hòa thượng Thanh Hanh đứng ra đảm trách trùng tu”. Chùa Vĩnh Nghiêm còn gọi là Đức La, thuộc làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, tọa lạc trên quả đồi thấp ven bờ sông Thương. Từ chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục đầu Đầu Giang – Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử; bên kia sông là khu đền Kiếp Bạc là đền thờ Hưng Đạo Đại Vương. Rõ ràng, về mặt địa lý, lịch sử chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang có mối liên hệ chặt chẽ với quần thể chùa Yên Tử, cũng như trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông khi nhà Trần nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của ngôi chùa trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Trong vai trò là vị vua lãnh đạo quốc gia, đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi đất nước, sau khi “nhường ngôi cho lại Anh Tông không bao lâu, khoảng tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7, 1299, Điều Ngự đã vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh đầu đà, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà…”. Từ đây, vua mới hội đủ nhân duyên thực hiện cuộc hành trình tâm linh “xuất gia tu đạo, hành đạo”, khát khao thực hiện chí nguyện lập Thiền phái Trúc Lâm, trên cơ sở hợp nhất các thiền phái đã hiện hữu mà trước đó ông nội của mình là vua Trần Thái Tông đã đặt nền tảng, nhằm đáp ứng các nhu cầu lịch sử đặt ra bấy giờ.
Tam Tổ thực lục còn ghi rằng Trần Nhân Tông ra đời như là một vị Phật gắn liền huyền sử, vừa sinh ra màu da như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai phải vua có nốt ruồi đen như hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói đứa bé này ngày sau có thể gánh vác việc lớn . Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận tương tự. Các dữ kiện đó nhằm chứng minh Trần Nhân Tông là một vị Phật Đại Việt. Từ khi xuất gia đến lúc ngộ đạo, hoằng hóa độ sanh, ông chẳng khác gì Phật Thích Ca. Trần Nhân Tông giã từ hoàng cung vào núi Yên Tử, tắm gội ở Ngự Dội lên ngồi dưới gốc tùng tư duy thiền định, bừng sáng trí tuệ. Sau đó, Nhân Tông đã cùng hai môn đệ là Pháp Loa và Huyền Quang đi thuyết pháp ở chùa Sùng Nghiêm, Siêu Loại. Sau khi viên tịch, xá lợi của ông thờ ở tháp Huệ Quang, được tổ chức bằng một nghi lễ trang trọng với số lượng tín đồ rất đông, vừa đi vừa đọc kinh thể hiện niềm tin của Phật tử đối với vị giáo chủ. Rõ ràng, Phật tử nước ta thời đó đã tôn xưng Trần Nhân Tông là Phật Biến Chiếu Tôn. Nhưng điều đáng nói Sơ Tổ là “hiện thân của Phật Đại Việt với nhiều đường nét riêng biệt, phong cách riêng biệt, khác với tông phái Thiền tông khác. Nó không phải là chi nhánh Phật giáo từ bên ngoài vào, nó bắt nguồn tại chỗ, tức từ một vị Phật đầu thai, thuyết pháp, giáo hóa cứu vớt chúng sinh”.
Trong vai trò là vị lãnh đạo tối cao dòng thiền Trúc Lâm, Phật hoàng Trần Nhân Tông với quan điểm Phật tại tâm, do đó ai cũng có thể thành Phật ngay giữa cõi đời. Một chủ trương như thế, bất cứ ai cũng trở thành thành viên của Thiền phái để chuyển hóa thân tâm và đóng góp tích cực cho đời. Đoàn Thị Thu Vân trong bài Tuệ Trung Thượng sĩ và Thiền phong đời Trần cho rằng tinh thần này thể hiện ở bài kệ kết thúc bài Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”(Cư trần vui đạo hãy tùy duyên, Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền. Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm, Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.) . Đây cũng là tôn chỉ của Sơ Tổ và là tư tưởng nhất quán của Thiền phái được thể hiện qua bốn điểm: 1. Hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp. 2. Hành động tùy duyên, tức là làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên. 3. Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực. 4. Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù Thiền hay Phật. Để được như vậy, các nhà tư tưởng Thiền phái đã có quá trình hoạt động và đúc kết từ thực tiễn trong tiến trình hình thành tư tưởng Cư trần lạc đạo đi từ tùy tục của Thường Chiếu, rồi đến biện tâm của Trần Thái Tông chuyển qua hòa quang đồng trần của Thượng sĩ sau cùng là tùy duyên lạc đạo của Trần Nhân Tông.
Để đưa dòng thiền này đi vào đời sống hiện thực của xã hội, Phật hoàng Trần Nhân Tông đi khắp nơi thuyết pháp và tiến đến thành lập những trung tâm hoằng pháp. Chùa Vĩnh Nghiêm nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm hoằng pháp, đạo tràng an cư kiết hạ, đào tạo Tăng tài, thuyết giảng giáo lý cho Tăng Ni mà Tam Tổ Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang xây dựng dưới sự bảo trợ triều đình và quần chúng nhân dân Phật tử ủng hộ cúng dường. Việc tổ chức an cư kiết hạ được Tam Tổ xem là một trong những Phật sự hàng đầu của một tổ Giáo hội Tăng già trong sự nghiệp truyền đăng tục diệm, phát triển đạo pháp. Trên hết, Phật sự này còn góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước sau ba cuộc chiến tranh vệ quốc, đánh đuổi quân Nguyên – Mông ra khỏi đất nước, tiến đến xây dựng Quốc gia Đại Việt trở thành Phật quốc ngay giữa cuộc đời trong tinh thần “Ở đời tùy duyên mà vui với đạo” mà Sơ Tổ Trúc Lâm từng tuyên thuyết.
Về mặt tổ chức, Thiền phái Trúc Lâm có kế hoạch triển khai cụ thể chương trình nội dung an cư theo sự hướng dẫn, phân định theo thông bạch Giáo hội Trung ương (lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm) trước thời điểm kiết hạ vài tháng. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, vào đời Trần thì các Tu viện, đại danh lam như Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Siêu Loại, Vĩnh Phúc, Báo Ân, An Lạc Tàng viện… là những cơ sở được Thiền phái chọn làm đạo tràng an cư kiết hạ trọng điểm có sự bảo trợ bảo trợ của triều đình, ưu tiên cho những ai là tăng sĩ ưu tú thuộc Giáo hội Trúc Lâm. Có thể nói Vĩnh Nghiêm là một trong những đạo tràng an cư kiết hạ thuộc cấp Trung ương Giáo hội, mang tính kiểu mẫu thời đó. Tam Tổ thực lục ghi “Ngày mồng một tháng giêng, năm Mậu Thân (1308), Điều Ngự sai Pháp Loa nhận chức trụ tì để nối dòng pháp tại chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại. Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, giảng Truyền Truyền đăng lục, lại sai Pháp Loa giữ chức trú trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp cho đại chúng”. Rõ ràng, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi lưu dấu 3 vị Tổ Trúc Lâm trong cương vị Trú Trì và làm Hóa chủ đạo tràng an cư kiết hạ hằng năm được sự bảo trợ của triều đình. Theo Sử sách ghi lại thì Vĩnh Nghiêm là nơi có số lượng Tăng Ni tham gia an cư kiết hạ rất đông và quần chúng Phật tử đến nghe pháp đại thừa khá lớn. Vì thế chùa được xây dựng trong khuôn viên đất lớn, quy hoạch kiến trúc phải đảm sự sinh hoạt cho tứ chúng.
Chùa được kiến thiết theo trục hướng Đông Nam, gồm bốn khối: Chùa Phật có tòa nhà tiền đường tức chùa Hộ, Thiêu Hương và Thượng điện, hình chữ “Công”; nhà Tổ đệ nhất cũng hình chữ “Công”; gác chuông hai tầng tám mái; nhà Tổ đệ nhị và nhà Trai kiểu chuôi vồ. Lấy mặt bằng sân làm gốc, ba khối kiến trúc sau đều có nền cao 30 cm, nền chùa Phật cao gấp đôi, ở nhà tiền đường và các nếp sau còn cao hơn nữa. Hai bên còn có nhà Tả vu, Hữu vu, mỗi dãy 18 gian rộng rãi, là nơi hàng năm chư Tăng các nơi về kiết hạ. Ngoài ra còn có các công trình khác nữa để phục vụ cho việc sinh hoạt Phật sự khác dành cho quần chúng Phật tử đến đây tu học hằng ngày và các lễ lớn. Nếu vào thời điểm nhà Lý, chùa Vĩnh Nghiêm ít người ta biết thì đến thời Trần, kể từ khi Trần Nhân Tông chính thức khai sáng ra thiền phái Trúc Lâm và chủ trương đưa đạo Phật vào đời, thì tại ngôi chùa Vĩnh Nghiêm này với chức năng là một trung tâm hoằng pháp của Thiền phái thì tầm ảnh hưởng của nó không chỉ ở trong giới thiền môn mà còn có tác động, ảnh hưởng rộng trên nhiều giới, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đúng như văn bia dựng trước chùa Vĩnh Nghiêm vào năm 1934 ghi: “Đức Tổ Điều Ngự Phật hoàng Trần Nhân Tông khai mở Tùng lâm Vĩnh Nghiêm thì kéo theo mở cả chợ chùa. Các vị vương thân quốc thích và khắp thập phương đã phát tâm tậu nhiều ruộng cúng cho chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở các hạt khác nữa”.
Cùng với Vĩnh Nghiêm, Giáo hội cũng kêu gọi sự hỷ cúng, đóng góp của Triều đình và hoàng thân quốc thích để xây dựng các đạo tràng tu tập có quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu tu học cho tăng Ni Phật tử. Tại Tu viện Quỳnh Lâm, một trong những đạo tràng an cư kiết hạ có số lượng an cư rất đông, được Nhà nước cấp đất để cày ruộng, có tới 1000 mẫu, lại được Nhà nước chỉ định 1000 canh phu tới cày ruộng. Ngoài ra, ta còn thấy đạo tràng chùa Báo Ân được vua Trần Anh Tông hỷ cúng 100 mẫu ruộng riêng từ gia đình họ Trần vào năm 1308, sau đó vua còn hỷ cúng 500 mẫu ruộng lấy từ Niệm Như Trang để cúng vào chùa Báo Ân vào năm 1312 khi số hành giả tu tập tăng lên so với các năm trước. Cũng vào năm 1313, Bảo Từ Hoàng Thái hậu cúng vào chùa Siêu Loại 300 mẫu gia điền. Năm 1315, vua Trần Anh Tông lấy 30 mẫu ruộng cúng chùa Siêu Loại. Năm 1317, Tư Đồ Văn Huệ Vương cúng dường 4000 lưng tiền vào chùa…Sự cúng dường ưu ái của giới lãnh đạo triều đình như thế đối với công tác an cư mà Giáo hội chủ trì, cũng như cung cấp “nô bộc Tam Bảo” để phục vụ chứng tỏ có mối liên hệ khắng khít giữa Nhà nước và Giáo hội để cùng nhau chung lo cho Phật sự trọng đại này, đảm bảo cho trên 30 ngàn hành giả an cư tập trung thuộc 800 ngôi tự viện mà Giáo hội Trúc Lâm quản lý mà sách Tam Tổ thực lục đã chép.
Về chương trình tu học, Thiền phái (Giáo hội) Trúc Lâm chủ trương Thiền – Giáo song hành, pháp học song hành với pháp tu trong thời gian an cư kể từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy hằng năm theo một quy cũ thiền môn, đậm nét thiền tông Phật giáo Đại Việt. Ba vị Tổ Trúc Lâm và các vị Giáo thọ cao cấp của Thiền phái đã nỗ lực biên soạn Giáo trình Phật học để giảng dạy cho các hành giả an cư tu tập với một nội dung đào tạo thực thi con đường Giới định Tuệ mà Thế Tôn và các bậc Thánh đã đi qua. Với ý nghĩa quan trọng của việc tu trì giới luật, chính Pháp Loa, sau khi được Điều Ngự Trần Nhân Tông thu nhận làm đệ tử và giáo trách nhiệm làm người lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm, phụng chiếu trở về Vĩnh Nghiêm làm trú trì và hóa chủ tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm. Sau một thời gian, nhị Tổ đã từng hiệu đính bộ Tứ Phần luật, khắc in 5000 bản lần đầu tiên vào năm 1322, tổ chức khóa học Luật Tứ Phần cho các hành giả tu trì. Điều đáng nói là Tổ đã mời các vị cao tăng như Quốc sư Tông Kính và Quốc sư Bảo Phác đến các đạo tràng giảng giới luật. Sách Tam Tổ thực lục ghi: “Tư Đồ Văn Huệ Vương mời sư về dinh thự An Long giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, nhân tiện, Sư xem lại bản Tứ Phần Luật San Bổ Sao, in để ấn tống hơn 5000 quyển. Sư nhờ Quốc tông Kính ở Du Tiên, Quốc sư Bảo Phác ở núi Vũ Ninh đến chùa Siêu Loại giảng bộ Luật này”.
Nếu Điều Ngự Trúc Lâm là một nhà khai sáng, một nhà thao lược, chiến lược trong việc thiết kế đường lối chủ trương, hoạt động của Thiền phái; Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, thực thi xây dựng hệ thống tổ chức điều hành Giáo hội Trúc Lâm, thì phải nói Huyền Quang, vị Tổ thứ ba, là truyền giáo giỏi thơ văn, biên sọạn khá nhiều kinh điển có giá trị cho Phật giáo thời đó. Điểm đáng nói là Tam Tổ thực lục nói rằng, đệ tam Tổ Huyền Quang vốn xuất thân là một trạng nguyên Lý Đạo Tái, sau khi xuất gia, đọc nhiều học rộng tinh thông Phật pháp, Tăng Ni theo học kể đến lên con số hàng nghìn người. Từ ấy Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang đã thay nhau đi thuyết pháp các đạo tràng danh tiếng như Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh Lâm…và các nơi khác trong nước. Tổ Trúc Lâm từng lệnh cho Huyền Quang biên soạn Chư phẩm kinh và Công văn tập… và ngự bút phê vào Thích Khoa giáo “Phàm sách gì đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa. Rồi sai thợ đem in để truyền cho đời và ban thưởng vàng bạc vô số”.
Các giáo trình như Chư phẩm kinh, Thích Khoa giáo, Pháp Hoa kinh khoa sớ, Bát Nhã Tâm kinh khoa sớ, Kim Cương Trường đà la ni khoa sớ…với một nội dung và số tiết thích hợp trong thời gian ba tháng, thay vì có kinh phải giảng dạy cả năm vẫn chưa hết được Tam Tổ biên soạn phục vụ cho việc giảng dạy các trường hạ. Đây chỉ là những sách giáo trình mang tính giáo khoa được Tam Tổ biên soạn ngắn gọn, súc tích, rút đại ý và bình giải về các kinh quan trọng mà Thiền phái Trúc Lâm lấy đó làm tông chỉ và cơ sở lập thuyết tu hành và chứng ngộ. Khoa là phân ra các đoạn và rút ra những điểm cốt lõi sau đó nói đại ý; còn sớ là chú thích về nghĩa lý các đoạn kinh. Các sách khoa sớ vì vậy được các hành giả lãnh hội nghĩa lý kinh điển rốt ráo từ các vị giáo thọ.
Từ các giáo trình mà Giáo hội Trung ương biên soạn và phổ biến chung cho các đạo tràng khắp cả nước, nhờ vậy mà các hành giả an cư, Phật tử có điều kiện nghiên cứu, học tập các bộ kinh quan yếu của hệ thống kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bát Nhã. Nhờ sự nỗ lực giảng dạy của chư Tôn giáo thọ có uy tín nhất trong giới thiền môn, mà các hành giả mới có điều kiện để y cứ vào đó thực thi Thiền – Giáo giáo song hành mà chứng ngộ; có nhân duyên thể nhập học thuyết Cư trần lạc đạo mà Sơ Tổ Trúc Lâm chủ trương, để phục vụ cho những đường lối hoạt động của Giáo hội Trúc Lâm, góp phần xây dựng cho đất nước phồn vinh, đạo pháp trường tồn. Theo sách Tam Tổ thực lục thì Pháp Loa là vị Sư thường xuyên đảm nhận giảng dạy yếu chỉ các bộ kinh này trong các đạo tràng Vĩnh Nghiêm, Tư Phúc, Báo Ân, Quỳnh Lâm, Thiên Quang: “…Năm 1322, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử và Thầy chủ sự Huyền Quang gởi thư mời Sư về chùa Báo Ân ở Siêu Loại, giảng hội thứ nhì trong kinh Hoa Nghiêm…Từ đó, trở đi, suốt chín hội, thính giả cả nghìn người, khi ít cũng hơn năm, sáu trăm người”.
Về phương diện pháp hành, Giáo hội Trúc Lâm chủ trương hành trình Giới định tuệ để thăng chứng giác ngộ. Điểm nổi Phật của Phật giáo Trúc Lâm là “Phật tại tâm”, bất cứ ai chỉ cần lòng lặng mà biết cũng thể trở thành thành viên của Phật giáo, trở thành vị Phật ở đời, để đi vào đời độ đời, đúng như lời sư Trúc Lâm từng khuyến cáo vua Trần Thái Tông:“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Lòng lặng mà biết, đó chính là chân Phật”. Thế nên, các hành giả, người học Phật cần hành trì giới, nhờ giới thanh tịnh mà tâm không loạn, tâm an tịnh mới an trú trong định…, đúng như Tổ Pháp Loa dạy trong Khuyến chúng Thượng thừa Tam học: “Sau khi thấy tánh phải giữ gìn giới cho thanh tịnh? Nghĩa là trong 12 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm không loạn động nên cảnh đến an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của cảnh mà chui vào. Ra vào không giao thiệp nên gọi là ngăn chặn. Tuy ngăn chặn mà không phải ngăn chặn. Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy. Đó gọi là giới đại thừa, là giới vô thượng, cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới này, tiểu tăng cho đến bậc đại tăng đều phải gìn giữ”. Rõ ràng, sự giữ giới này bắt nguồn từ sự gìn giữ 6 căn thanh tịnh, không để 6 trần nhiễm hại. Có thể xem đây là chủ trương gìn giữ giới luật của Thiền tông, là nét đặc thù quan trọng trong hệ thống Luật tông mà các thiền sư thực thi hành trì.
Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì, Tam Tổ thực lục, ghi rằng các tu viện thời này, thường áp dụng nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi của nhà vua – thiền gia Trần Thái Tông – người đặt nền móng tư tưởng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời, biên soạn. Đây là phương thức hành thiền phù hợp với tâm thức người Việt, bằng cách sám hối, tẩy rửa 6 căn đối với 6 trần, ứng với 6 thời bái sám trong ngày, không cho bụi bặm khách trần đeo bám, từ đó bước vào thế giới hành trì thiền định. Sự bái sám này không chỉ thực hiện trong ba tháng an cư mà còn hành trì quanh năm suốt tháng. Mục đích là đưa hành giả trở về chân tâm thanh tịnh. Cũng theo sách này, Pháp Loa và Huyền Quang vẫn chủ trương cho các hành giả hành Mật giáo, Tịnh độ theo phong thái Thiền; nghĩa là trì tụng thần chú để gia trì định lực; niệm Phật là để đi đến nhất tâm bất loạn.
Tuy nhiên, việc thực tập thiền định không phải là dễ dàng thực hiện. Các thiền sư cũng tùy theo căn cơ trình độ của mỗi thiền sinh trong các đạo tràng an cư mà tổ chức các thời khóa thực tập thiền. Các vị hành giả được sự hướng dẫn lý thuyết về phương thức hành thiền cụ thể, sau đó là thực tập thiền định. Đối với những Tịnh nghiệp đạo tràng lớn, Trung tâm an cư kiết hạ có số lượng hành giả quá đông như đại bản sơn Yên Tử, Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm…., vị thiền sư không đủ thời gian trả lời. Do đó, vị thiền chủ sẽ tổ chức các buổi đại tham để mọi hành giả có cơ hội tham cứu, thoại đầu xoay xung quanh các đề tài Phật pháp, sinh tử, bản thể, vô thường…Thường các hành giả có căn cơ đại trí mới dám đặt câu hỏi, vì thiền sư thường hay lật ngược các câu hỏi của thiền sinh; hay dùng lối nói nghịch ngữ, phi logic; hoặc dùng phương thức hỏi một đường đáp một ngã nhằm khai mở tâm thức người học cho đến khi nào ngộ được yếu chỉ thiền thì thôi. Sách Tam Tổ thực lục cũng ghi lại những cuộc đại tham của Điều Ngự Giác Hoàng với các thiền sinh, chẳng hạn: “Thế nào là một việc hướng thượng? Sư đáp: Khèo nhật nguyệt trên đầu tríich trượng. Lại hỏi: Dùng công án cũ mà làm gì?- Mỗi lần dùng đến lại thành mới tinh. – Thế nào là truyền riêng ngoài giáo điển? Con ểnh ương nhảy không khỏi cái đấu.”
Ngoài những đại tham, có những cuộc tiểu tham xảy ra tùy theo những cơ duyên khác nhau, căn cơ khác nhau bên ngoài pháp tòa giữa các thiền sinh với nhau, hoặc các thiền sinh với thiền chủ…để đập vỡ các vấn đề đã từng ưu tư, trăn trở, nghi vấn, để bước vào thế giới Thiền.
Với một nội dung chương trình tu học bảo đảm tính tri hành hợp nhất như thế, do đó, thời khóa tu tập của chư Tăng, Ni trong các thiền đường đời Trần, hầu như được các vị Thiền chủ, ban Quản trị bố trí kín từ bốn giờ sáng cho đến 22 giờ chỉ tịnh. Ngoài việc chấp tác, thực thi các thời khóa, bái sám, qúa đường, tọa thiền, các hành giả còn phải tham gia học luật, các buổi giảng kinh đại thừa, tham dự các buổi đại tham, tiểu tham do Tam Tổ Trúc Lâm chủ trì. Rõ ràng, trong một bối cảnh lịch sử cả dân tộc phát huy nội lực, đề cao ý thức độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, kể cả tôn giáo để xây dựng đất nước, việc Giáo hội Trúc Lâm xem việc an cư kiết hạ, đào tạo Tăng Ni, giảng dạy cho Phật tử là một trong chương trình Phật sự trọng tâm của Phật giáo cần được thực thi hàng đầu. Suy cho cùng, mục đích của an cư kiết hạ của giới xuất gia Phật giáo, giảng pháp cho Phật tử là nhằm nâng cao trình độ thẩm thấu giáo nghĩa Phật đà, hướng đến sự trưỡng dưỡng nội tâm, thành tựu Phật tâm ngay giữa đời này. Một khi giới đức được nghiêm tịnh, tâm thức định tĩnh, trí tuệ khai mở, thì tự thân mỗi cá nhân sẽ tự hoàn thiện cho chính mình và có khả năng đóng góp tích cực cho cộng đồng xã hội.
Nhìn chung, đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần là nhập thế tích cực cho đời và làm cho đời sáng tươi. Chính tinh thần này mà Giáo hội đã được các vương triều nhà Trần ủng hộ, quần chúng tin theo, điều đó cũng có nghĩa các tăng sĩ đời Trần là những nhà tu hành có giới đức thanh tịnh, định lực kiên cố, và trí tuệ thăng chứng đã góp phần làm cho đạo pháp trường tồn, dân tộc hưng thịnh, nhân dân an lạc. Mỗi kỳ an cư là mỗi lần Giáo hội cùng phối hợp với Triều đình có chủ trương xây dựng, thiết kế chương trình tu học thời khóa thật cụ thể, để sau một mùa an cư điều đem lại sự đắc pháp cho các hành giả và lợi lạc cho mọi người dân Phật tử. Trên hết, kỳ an cư kiết hạ, thực sự đã làm sống dậy tinh thần Phật giáo Đại Việt, góp phần làm nên lịch sử dân tộc, lịch sử Phật giáo nước nhà mà chúng ta có nhân duyên để nhìn lại và định hướng trong cuộc hành trình tìm về cội nguồn giải thoát.
Cho nên, bất cứ vị tăng sĩ nào trong thời Trần đều cũng được ao ước trở về Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, hay những đạo tràng an cư của Trung ương Giáo hội để kiết hạ như là được sống trên Thánh địa, “đại bản sơn” của Phật giáo Trúc Lâm, nơi đây được xem là Phật quốc, chẳng khác nào Tây Trúc, Linh Thứu mà đệ Tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang mô tả trong bài Vịnh Vân Yên tự phú bằng chữ Nôm. Cũng trong ý nghĩa này mà ngày nay, đã là người Phật tử Việt Nam, bất kỳ ai cũng mong rằng có một lần ít nhất trong đời được về chùa Vĩnh Nghiêm, hay Yên Tử chiêm bái và tu học: “Ai qua Yên Tử – Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm chưa đến, thiền tâm chưa đành” hay “Dù ai quyết chí tu hành, Có về Yên Tử mới đành lòng tu”.
Rõ ràng, chùa Vĩnh Nghiêm thật sự trở thành trung tâm hoằng pháp, cơ sở đào tạo Tăng tài, nơi hội tụ quần chúng tu học giáo lý Phật đà thuộc hệ thống Trúc lâm – Yên Tử thời Trần. Trong một không gian xa lắm, sự kết nối giữa chùa Vĩnh Nghiêm và các chùa trên quần thể núi Yên Tử và Quỳnh Lâm đã tạo nên một dấu ấn lịch sử Phật giáo, đã góp phần cho sự phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam lên một tầm vóc vừa quy mô về hệ thống tổ chức sinh hoạt Giáo hội và thể nhập đời sống, nhưng đồng thời cũng có vai trò rất quan trọng trong việc chấn hưng văn hóa nước nhà, nhất là trong việc góp phần xây dựng một quốc gia Đại Việt trở nên hùng cường an ninh vững chắc.
2. Chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang – Trụ sở tổ chức mô hình Phật giáo Nhất tông hay còn gọi Trụ sở Trung ương của Giáo hội Trúc Lâm
Theo Nguyễn Duy Hinh, mô hình tổ chức Phật giáo Nhất tông ra đời dựa trên hai tiền đề xã hội và tôn giáo hình thành trong hoàn cảnh lịch sử của nước nhà. Về mặt xã hội, nhà Trần trong buổi đầu mới thành lập, công việc cấp bách thiết thực nhất đặt ra trước mắt các nhà lãnh đạo tối cao là xây dựng một ý thức hệ độc lập thống nhất gồm 4 mục đích chính:
1. Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngoài để thanh toán hoàn toàn mọi cơ sở của nước xâm lược.
2. Làm cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc về mặt chính trị để củng cố sự thống nhất dân tộc một bước nữa.
3. Làm công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền Trung ương, tức quy tụ vào họ Lý họ Trần.
4. Làm phương diện giải quyết các mâu thuẫn nội bộ dân tộc chủ yếu là giai cấp lãnh đạo và đông đảo nhân dân quần chúng nhằm duy trì một trật tự xã hội và cũng tức là duy trì ngai vàng của dòng họ.
Về mặt tôn giáo, nhà Trần phải lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng cần phải thay đổi nội dung của các Thiền phái để đáp ứng các yêu cầu căn bản như đã nói trên. Vì thế, nhà Trần chủ trương lập ra một Thiền phái có nội dung tư tưởng độc lập, thể hiện đúng tinh thần bản sắc dân tộc hơn, hướng đến các mục tiêu sau:
1. Tự mình phân biệt với Thiền tông ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập.
2. Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại quốc của các phái Thiền tông trong nước.
3. Vượt lên trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như các tín ngưỡng phi Phật giáo để nhằm thống nhất ý thức hệ. Không chịu trách nhiệm về sự khác biệt và đụng độ đã xảy ra trong lịch sử giữa các phái Thiền tông với nhau cũng như Thiền tông với các tín ngưỡng khác, do đó thu hút các tín ngưỡng khác.
4. Tự khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới – tuy rằng thực tế chỉ là một phái, với đầy đủ các yếu tố để thu phục quần chúng.
Thực tế, tư tưởng lập Thiền phái mới được manh nha từ khi Phật giáo chủ trương mới, nhập thế, tuỳ tục, tuỳ duyên nhưng bất biến để đáp ứng các yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra của một đất nước vừa độc lập và đang thực hiện thống nhất trên mọi phương diện. Dưới ảnh hưởng và uy tín của nhà vua vào thế kỷ thứ XIII, ba Thiền phái trên dần dần sát nhập thành Thiền phái Trúc Lâm duy nhất đời Trần. Và như thế mô hình Phật giáo Nhất Tông được thiết kế từ khi Trần Thái Tông lên ngôi, và phải đến thời Trần Nhân Tông thì mới đi vào hoạt động thực tiễn một cách mạnh mẽ. Mô hình tổ chức Giáo hội này hoạt động như một tôn giáo mới ra đời mà ở đó Trần Nhân Tông được tôn vinh là Giáo chủ Phật hoàng Trần Nhân Tông, có tôn chỉ, đường lối hoạt động trong một tổ chức thống từ tưởng cho đến hình thức hoạt động của Giáo hội từ Trung ương cho đến các địa phương. Đây là một nét mới, đặc sắc của Phật giáo nhà Trần. Thực tế, khi đất nước thống nhất thì mọi tổ chức cũng phải thống nhất. Thế nhưng, vào đời Lý, mặc dầu Phật giáo được xem là quốc giáo với những ông vua Phật tử thuần thành ủng hộ, vậy mà Giáo hội cũng chưa thành lập được. Các chức vụ như Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục…là những chức vụ do vua, triều đình ban, chứ không phải của Giáo hội. Với sự thành lập Giáo hội Trúc Lâm, rõ ràng Tam Tổ Trúc Lâm muốn thống nhất các Thiền phái đang có mặt, quy tụ toàn bộ Tăng sĩ vào trong một tổ chức Giáo hội, hoạt động với một tinh thần và mang bản sắc dân tộc, nhập thế tích cực và thể nghiệm tu chứng ngay giữa cõi đời này.
Cho nên, việc thành lập Giáo hội Trúc Lâm, chùa Vĩnh Nghiêm vinh dự được các nhà lãnh đạo Phật giáo bấy giờ chọn làm trụ sở Trung ương Giáo hội là điều tất yếu. Văn phòng Trung ương Giáo hội ra đời tại ngôi chùa phát tích chốn Tổ này, một mặt nó đáp ứng được nhu cầu lịch sử đặt ra như đã nói, một mặt tạo nên sức mạnh nội tại của chính mình để phát triển Giáo hội trên một tầm vóc mới, phục vụ cho công cuộc chấn hưng Phật giáo, cũng là góp sức phát triển đất nước. Với quan điểm Phật tại tâm, chỉ cần biện tâm, tẩy rửa tâm cho đến khi “Tâm tịch nhi tri,thị danh chân Phật” (Chỉ cần tâm lặng mà biết, đó chính là chân Phật) như trong Khóa hư lục của Trần Thái Tông, thì ai cũng có khả năng trở thành Phật giữa đời này. Vì thế, chưa bao giờ trong lịch sử Phật giáo, số lượng tín đồ Phật tử trở thành thành viên Thiền phái Trúc Lâm đông đảo như vậy. Sỡ dĩ như vậy, là do Trần Nhân Tông trong cương vị đứng đầu Giáo hội đã luôn ý thức việc xây dựng nhân sự kế thừa để phát triển tổ chức bộ máy lãnh đạo điều hành mọi hoạt động của Giáo hội là điều tất yếu. Với nhãn quan của nhà Lãnh đạo, Tổ Trúc Lâm khi biết mình đã già yếu, đã tự tin truyền y bát cho Pháp Loa làm đệ nhị Tổ và giao trọng trách lãnh đạo Tăng già vào năm 1307. Có thể nói Pháp Loa là người thừa kế vai trò lãnh đạo Giáo hội trẻ nhất trong lịch sử Phật giáo nước nhà. Đây chính là nỗ lực lớn của Thiền phái Trúc Lâm mà cũng là trọng trách lớn nhất mà Giáo hội phải duy trì mà phát triển.
Sau khi lên ngôi lãnh đạo Tăng Già, tháng 9, năm Quý Sửu (1913), “Thiền sư Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, đặt văn phòng Trung ương Giáo hội tại đó, qui định mọi chức vụ Tăng sĩ trong Giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sổ Tăng tịch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam Tăng sĩ có hồ sơ tại Giáo hội Trung ương” . Từ thời điểm này, ngôi chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang lại có thêm một vai trò nữa, đó là nơi quy tụ những cao tăng thạch đức trong chốn thiền môn, điều hành bộ máy hoạt động của Giáo hội đối với Tăng già, quần chúng Phật tử liên hệ đến các công tác Phật sự trong nước cũng như ngoài nước. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì do số lượng Tăng Ni đông quá, cứ mỗi lần tổ chức thọ giới thì phải thải ra hàng nghìn người; tuy vậy, “tính đến năm 1329, số tăng sĩ đã được xuất gia trong những giới đàn do Giáo hội Nhất Tông (Trúc Lâm) tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị.”. Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều là những vị thầy có đệ tử với con số hàng nghìn người được quy y, thụ Bồ tát giới tại gia hay xuất gia. Pháp Loa là người chủ trương phát triển Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm có tổ chức hệ thống quy củ đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Số lượng xuất gia này là đã có sự hạn chế, ba năm mới tổ chức một lần, mỗi giới đàn chỉ giới hạn 3000 Tăng Ni. Những vị đệ tử xuất sắc của Pháp Loa là Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc, Hải Ấn, Hoằng Tế, Huyền Giác, Quế Đường, Cảnh Ngung… đã góp phần xiển dương Giáo pháp và đưa đạo vào đời.
Cũng do số lượng Tăng Ni đông đảo như thế, nên vai trò tổ chức và điều hành Giáo hội cũng không phải dễ dàng. Thời đức Phật còn tại thế, Phật từng nói trong kinh Trường A hàm – Kinh Du hành: “Như Lai bất ngôn ngã trì ư chúng, ngã nhiếp ư chúng” (Như Lai không nói Như Lai trì chúng, nhiếp chúng). Ý nói, Phật không tự xem mình là người thống lĩnh chúng Tỳ kheo, bởi vì đức Phật luôn khuyến cáo các thầy Tỳ kheo nên lấy giới luật làm thầy, giới luật còn là chính pháp còn. Tuy nhiên, khi đạo Phật được du nhập vào Việt Nam, đến đời Trần, do xu hướng phát triển của đất nước, do xã hội Phật giáo đời Trần là quốc giáo phát triển một cách mạnh mẽ, nếu không có một mô hình tổ chức Giáo hội thì khó đi đến sự thanh tịnh trong hàng ngũ Tăng già, tất nhiên cũng không tránh khỏi những thành phần khác trong xã hội lợi dụng Phật giáo để phục vụ cho việc hưởng lợi hay thực hiện ý đồ chính trị của họ. Hậu quả, nó sẽ dẫn đến sự phát triển đạo Phật một cách tự phát, không có chủ trương, đường lối rõ ràng mang bản sắc Phật giáo Đại Việt. Hay nói cách khác, chính tổ chức Giáo hội này đã làm cho các thành phần trong xã hội được nối kết, ắt hẳn tạo nên sức mạnh nội lực cộng sinh cho cả dân tộc. Cho nên, cũng nhờ tổ chức Giáo hội này, mà tại Văn phòng Trung ương Giáo hội chùa Vĩnh Nghiêm đã ra những quyết sách, quyết nghị, văn bản cụ thể để chỉ đạo mọi hoạt động của Giáo hội từ Trung ương phổ cập đến địa phương thực hiện.
Thông qua các công tác kiểm Tăng, cấp chứng điệp, tăng tịch, thi cử sát hạch Tăng Ni vào thời Trần dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Trúc Lâm thì suy cùng là củng cố và phát Giáo hội Tăng già trong tinh thần trang nghiêm Giáo hội và đạo pháp trường tồn, đất nước hưng thịnh. Đọc các văn bản như “Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn” (Lời khuyên người xuất gia tiến tu việc đạo), bài “Thượng thừa Tam học khuyến chúng phổ thuyết” (Rộng khuyên chúng về ba môn học Thượng thừa), bài “Yếu minh học thuật”, chúng ta cũng thấy tâm tư nguyện vọng của các nhà lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm đối việc thanh tịnh hóa Tăng già ở trong Giáo hội, cũng như những Tăng sĩ còn ở ngoài tổ chức Giáo hội bấy giờ. Pháp Loa khuyến cáo “Mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, ơn nào hơn thế, thế mà chúng còn bỏ, huống chi người ngoài. Chỉ bo bo giữ mối thầy trò, không thể buông tha. Như vậy, không bị trói lại, tự mình xin trói, không phải buộc lại tự mình xin buộc. Chỉ vì ham điều lợi lộc không chịu thực nhìn cái kiếp trầm luân. Hoặc giả khoe mình, cầu danh, cầu tiếng. Hoặc thu mình lại không hay biết gì. Đó chính là bọn vô minh”.
Rõ ràng, sự phát triển của một tổ chức xã hội nào cũng có một số thành phần không tốt, ngay cả trong một đoàn thể Tăng già mà Tổ Pháp Loa cho là có một số người thiếu hiểu biết (vô minh) mà ham trưởng dưỡng, lợi lộc, danh vọng quyền uy; hoặc do thân cận bạn ác, không phân biệt chân ngụy “Miệng nói xuất gia nhưng tâm theo chuyện thế tục, tự mình làm còn dạy người khác làm, không biết xấu hổ”. Như vậy, trong vai trò lãnh đạo Giáo hội, Pháp Loa đã nhìn thấy những hiện tượng, có một số Tăng Ni tham dự chuyện thế tục: mê tín, bói toán, nắm giữ tài sản… Tổ còn khuyến cáo Tăng Ni không nên bàn lý luận suông, thực hành giới luật nghiêm túc; nếu không chẳng những làm sa sút tông môn mà còn làm rỗng mọt Chánh pháp như trong bài Khuyên rộng chúng về môn Tam học Thượng thừa đã ghi.
Xem ra, Tăng sự là vấn đề quan trọng bậc nhất trong hệ thống tổ chức Tăng già thuộc Giáo hội. Tam Tổ và giới lãnh đạo Giáo hội hẳn nhiên thành lập ban Tăng sự để thống kê số lượng Tăng Ni tu học hằng năm, có kế hoạch triển khai về công tác tổ chức Giới đàn, phổ biến về quy định thời gian ba năm mới có một lần độ Tăng. Hồ sơ thọ giới được xét duyệt rất kỹ, có hàng nghìn hồ sơ bị loạị. Đến năm 1329, số Tăng sĩ xuất gia vào thời đó là 15.000 vị so với dân số thời đó không phải là nhỏ. Truyện kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng có nói “Các chùa như Hoàng Giang, Đông Cổ, An Sinh, Yên Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh…dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm Tăng Ni nhiều bằng nửa số dân thường”. Chính vì số lượng đông như thế, nên có sự hạn chế về việc số lượng giới tử, thời gian quy định tổ chức, có sự chọn lựa giới tử chặt chẽ trong việc Tuyển Phật trường. Mặt khác Giáo hội cũng lo nghĩ nếu Tăng sĩ đông quá nếu không học tập và thủ trì giới luật thì sẽ dẫn đến những tiềm ẩn sai phạm trong Giáo đoàn. Cho nên, Giáo hội sau những cuôc bàn thảo, hội họp, chư tôn đức đã ra kế hoạch tổ chức các lớp học Giới luật cho Tăng chúng qua các mùa an cư, cũng như các khóa học Phật pháp thường xuyên với việc cho ấn bản 5000 bộ luật Tứ phần vào năm 1332 và thỉnh các vị cao tăng như Tông Cảnh, Bảo Phác chủ trì việc giảng dạy và giám sát luật nghi cho Tăng chúng. Hẳn nhiên, những vấn đề Phật sự quan trọng như tuyển Phật trường, thanh tịnh Tăng già, giải quyết những về liên hệ đến giới luật, những sai phạm trong Giáo hội có tính thời sự, cấp thiết đối với mạng mạch Tăng già, ắt hẳn đã được giới lãnh đạo Phật giáo bàn thảo nhiều lần để rồi yết ma tại trụ sở Trung ương Giáo hội – chùa Vĩnh Nghiêm, sau đó mới gởi văn bản đến các cơ sở trị sự địa phương và tự viện để thi hành.
Ngoài việc tổ chức Đại giới đàn truyền thọ Tỳ kheo cho cac giới tử, Giáo hội còn tổ chức truyền thọ Bồ tát giới, Tam quy ngũ giới cho các vị Hoàng tộc, Phật tử tại gia được tổ chức thường xuyên tại cùa chùa Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Quỳnh lâm… Các buổi khoá niệm cầu an, cầu siêu chẩn tế cũng được tổ chức, gọi là “Diệm khẩu thí pháp hội”, có nghĩa là đại hội Phật pháp để bố thí cho loài quỷ đói. Pháp này bày ra để thực hiện giáo nghiã từ bi, lợi lạc quần sinh. Năm 1320, Pháp Loa tổ chức trai đàn chẩn tế ở chùa Phổ Minh trong cung để cầu cho Thượng hoàng Anh Tông sống trường thọ. Việc biên soạn khoa nghi Du già, Phật giáo pháp sự đạo tràng công cách thức ấn hành vào năm 1299 là nhằm mục đích thu hút tín đồ tham gia học đạo. Các cuộc đại tham về thiền thường xuyên được tổ chức theo một nghi thức trang trọng. Mở đầu là phần niệm hương, kế đó là thiền sư đăng toà, có lời sách tấn và sau đó trả lời các câu hỏi của các thiền sinh. Việc xây chùa, đúc tượng phục vụ cho việc hoằng pháp qua các Phật sự như nghi lễ thiền giáo, thuyết pháp được chú trọng. Có thể nói từ khi tổ chức Giáo hội Nhất tông này chính thức đi vào hoạt động trở về sau thì Phật giáo Việt Nam bấy giờ đã trở thành lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm trợ cho triều đại nhà Trần với kỳ tích 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông và thiết lập một nền độc lập hòa bình cho cả dân tộc.
Cũng vì số lượng chư Tăng Ni phát triển nhanh chóng, Phật tử quy tụ đông đảo mà Tam Tổ thực lục ghi nhận Pháp Loa, trong vai lãnh đạo Giáo hội đã tiến hành xây dựng cơ sở tự viện, các công trình văn hóa Phật giáo để đáp ứng nhu cầu tu học cho mọi giới. Về tự viện năm 1313, có 100 ngôi chùa đã được xây dựng; tại chùa Báo Ân. Vào năm 1314, Giáo hội đã xây đến 33 cơ sở trong đó có Phật điện, Tàng kinh và Tăng đường. Tính đến năm 1329, Giáo hội đã dựng được 5 bảo tháp và hai trung tâm hoằng pháp, hành đạo lớn là Quỳnh Lâm và Báo Ân. Về việc đúc tượng, Giáo hội đã đúc tới 1300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng, nhưng nổi bật nhất là có 3 công trình đáng chú ý, với sự hỷ cúng của triều đình được xem như là những công trình văn hóa trọng điểm của Phật giáo Đại Việt: Đó là vào tháng 1 năm 1314, đúc 3 tượng Phật Di Đà, Thích Ca và Di Lặc cao 17 m; Tháng 6 năm 1324, tạo dựng hai bộ tượng A Di Đà bằng sơn mài; Ngày 7 tháng 3 năm 1327 đúc xong pho tượng Phật Di Lặc cao 1 trượng 6 và tượng các Thánh Tăng sau 3 tiến hành tạo dựng … như sách Việt Nam Phật giáo sử luận ghi.
Bên cạnh thành tựu về các hoạt động Tăng sự, xây dựng các cơ sở sinh hoạt hành chánh, tín ngưỡng tâm linh, Giáo hội Trúc Lâm còn tiến hành thực hiện Đại tạng kinh đời Trần như Tam Tổ thực lục đã ghi. Như chúng ta đã biết, thời đại Lý – Trần là thời đại phục hưng văn hóa và phát triển đất nước. Cho nên, ngay khi nhà Lý lên ngôi, các cao tăng dưới sự bảo trợ triều đình đã nhiều lần sang Trung Hoa thỉnh đại tạng kinh về Đại Việt để phiên dịch và ấn tống. Sang đời Trần, công tác này trở thành một trong những Phật sự quan trọng trong kế hoạch và tầm nhìn mới của Giáo hội Trúc Lâm là xây dựng một Đại tạng kinh đời Trần góp phần trong việc chấn hưng văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa nước nhà nói chung. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận thì sau sự kiện sứ nhà Nguyên sang, khi về vua Anh Tông đã cho nội viên ngoại lang là Trần Khắc Dung và Phạm Thảo cùng đi theo để thỉnh một bản kinh mới nhất của Trung Hoa, ấn bản này được cất ở phủ Thiên Trường. Đại Việt sử ký toàn thư chép thì bản này được in để lưu hành. Sách Tam Tổ thực lục nói đến năm 1311, nghĩa là ba năm sau khi Trúc Lâm tịch, thì Anh Tông ban chiếu tục san Đại tạng kinh. Vậy là việc khắc bản được bắt đầu từ năm 1295, hay 1296, rồi công việc bị gián đoạn vào năm 1038 khi Trúc Lâm tịch, cho đến năm 1311 mới tiếp tục. Điều đáng nói là khi Pháp Loa trong cương vị là Tổ thứ hai và giữ trọng trách đứng đầu Giáo hội Trúc Lâm, cũng chính từ trụ sở Trung ương Giáo hội – chùa Vĩnh Nghiêm đã bàn thảo cùng với các nhà lãnh đạo Phật giáo bấy giờ giao trọng trách này cho thiền sư Bảo sát, đệ tử đầu tay của Trúc Lâm và là sư huynh của mình đứng ra làm công tác phiên dịch ấn bản.
Công tác ấn hành Đại tạng kinh được thực hành như thế nào thì sử sách không ghi. Sử chỉ ghi lại vào tháng chạp năm Kỷ tỵ (1319) chư Tăng và cư sĩ đã hiến máu in Đại tạng kinh 5000 quyển. Đây là bản kinh đầu tiên được hoàn thành để khắc bản ấn tống và được ra mắt khánh thành mà trước đó tại Văn phòng Trung ương Giáo hội – Vĩnh Nghiêm, Pháp Loa đã ấn ký ra công văn kêu gọi ủng hộ việc khắc bản Đại tạng kinh đời Trần. Như vậy việc khắc bản hoàn thành năm 1319; thời gian khắc bản là 24 năm, kể cả ba năm gián đoạn. Có điều sách Tam Tổ thực lục ghi vào năm 1329, Pháp Loa lại cho in Đại tạng kinh với số lượng là 5000 quyển. Với con số 5000 quyển mà Tam Tổ thực lục hai lần nhắc lại, có lẽ trong đó có cả Thiền lâm chiết chủy ngữ lục, Trúc Lâm hậu lục, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Thạch thất Mị ngữ, và Tăng già thoái sự là các tác phẩm của Trúc Lâm để đưa vào Đại tạng mà phát hành. Ngoài ra các tác phẩm Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa nghi, Kim cương Tam muội kinh của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, các tác phẩm của Pháp Loa cũng được vào Đại tạng để ấn hành rộng rãi.
Rõ ràng, công việc khắc bản Đại tạng kinh là một công trình văn hóa mang tầm vóc của Quốc gia, chứ không phải chỉ riêng Giáo hội thực hiện, nếu không có sự ủng hộ của triều đình và các đại thí chủ vương hầu khanh tước Phật tử, cũng như đội ngũ quần chúng Phật tử giỏi kỹ thuật viết chữ và khắc bản nhiệt tâm, hằng sản đóng góp công sức. Ròng rã gần 20 năm để thực hiện việc ấn bản khắc in. Chứng tỏ Phật giáo Đại Việt vào thời Trần, với Giáo hội Trúc Lâm, nhất là các nhà lãnh đạo Phật giáo Trung ương có trụ sở tại Văn phòng Trung ương Giáo hội – chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang đã làm nên Đại tạng kinh đời Trần, đóng góp cho công việc hoằng dương Phật giáo ở nước ta, cũng như công cuôc chấn hưng văn hóa và phát triển đất nước. Điều này, một lần nữa khẳng định vai trò chùa Vĩnh Nghiêm – Đức La – Bắc Giang có một vị trí vô cùng quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển Phật giáo Đại Việt.
Tóm lại, chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang không chỉ quê hương phát tích chốn Tổ, mà còn là một trung tâm hoằng pháp, đào tạo tăng tài, giảng dạy giáo lý Phật đà, thực hiện các Phật sự đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tâm linh cho Phật tử Đại Việt. Quan trọng hơn, chùa Vĩnh Nghiêm là đại bản doanh của Thiền phái Trúc Lâm, là trụ sở Văn phòng Trung ương của Giáo hội Trúc Lâm thực hiện mô hình Phật giáo Nhất tông thống nhất từ trong ý chí, tư tưởng, tôn chỉ, đường lối, hình thức sinh hoạt từ Trung ương cho đến các địa phương trong dòng chảy lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Đại Việt.
Cập nhật ( 18/03/2011 )