VĂN * Theo chúng tôi, văn hóa hôn lễ cũng là một trong những hiện tượng văn hóa góp phần quan trọng tạo nên diện mạo tổng thể của nền văn hóa dân tộc vừa truyền thống, vừa hiện đại. Do vậy, hiện tượng văn hóa này cũng nằm trong sự vận động và biến đổi Căn cứ vào tiến trình lịch sử văn hóa và lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng tôi tạm thời phân kì tiến trình văn hóa hôn lễ của người Việt thành hai giai đoạn lớn như sau: 1. Văn hóa hôn lễ trong xã hội cổ truyền (hay Văn hóa hôn lễ cổ truyền), từ đầu đến trước năm 1945; 2. Văn hóa hôn lễ trong xã hội mới – hiện đại (hay văn hóa hôn lễ hiện đại), từ sau năm 1945 đến nay. 1.Văn hóa hôn lễ trong xã hội cổ truyền Theo các nguồn sử liệu của văn hóa dân gian (hay dân tục học) và dân tộc học, cùng các thư tịch cổ thì người Việt đã có tục hôn nhân một vợ một chồng khá là văn minh cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm, theo chế độ phụ hệ, Tương truyền từ thời Hùng Vương thứ 18, khi nhà vua muốn gả công chúa Ngọc Hoa cho một người hiền tài, nên đã tổ chức một cuộc kén rể rất trọng thể. Và sau đó chàng Sơn Tinh (Tản Viên) đã được vua Hùng chọn làm phò mã, rồi cho tổ chức hôn lễ, với lễ rước dâu là công chúa Ngọc Hoa từ thành Văn Lang về núi Tản Viên rất linh đình (1). Tuy nhiên, đó chỉ là những tư liệu lưu truyền trong dân gian mạng đậm dấu ấn của truyền thuyết, và được người đời sau hồi suy lại rồi thêu dệt thành thần tích và trò diễn trong lễ hội của một số làng xã trong khu vực đền Hùng (Phú Thọ). Mặt khác, căn cứ Như vậy, phong tục về việc hôn nhân và gia đình ở thời Hùng Vương vẫn còn là một ẩn số chưa có lời giải thỏa đáng (?), Tuy nhiên, người ta có thể căn cứ vào nguồn tư liệu văn hóa dân gian về “triết lí trầu cau” qua câu truyện cổ “Trầu cau” vốn được lưu truyền trong dân gian từ ngàn xưa, được Vũ Quỳnh và Kiều Phú chép lại trong sách Lĩnh Nam chính quái (3), để tìm hiểu về tình yêu, hôn nhân, tình huyết nhục trong cộng đồng xã hội Văn Lang thời cổ đại. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người Việt ta lấy Trầu cau làm lễ vật quan trọng số một không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi từ ngàn xưa đến nay. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, người Việt chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của văn hóa Nho giáo Trung Quốc, cùng với những tập tục chính trong quan hệ xã hội như: hôn, tang, tế, nhưng không hoàn toàn làm theo người Trung Quốc, mà tổ tiên cha ông chúng ta đã cải biến những tập tục này của người Hán thành những tục lệ của người Việt để phù hợp với văn hóa và phong tục truyền thống của nước ta. Vì hôn nhân là một việc rất quan trọng trong cuộc sống của con người, nên việc hai người con trai và con gái lấy nhau không phải là một việc làm nhất thời và tùy tiện được, vì họ sẽ phải sống cùng nhau đến hết cuộc đời. Họ có được hạnh phúc hay khổ đau về sau đều bắt nguồn từ việc lựa chọn đầu tiên này. Do vậy, mà người xưa đã đặt ra các nghi lễ trong hôn nhân để ràng buộc họ với nhau về tinh thần cũng như luật tục, hay luật pháp sau này, để cho họ thấy rõ tính chất thiêng liêng cao cả của việc hôn nhân, rồi từ đó họ tự thấy phải sống có trách nhiệm và làm tròn bổn phận với nhau, là tấm gương sáng cho con cháu đời sau của họ noi theo. Như đã trình bày ở trên, người Đến thời kỳ quốc gia phong kiến Đại Việt, các triều đại Đinh, Lê, Lý, – Trần đều cố gắng chỉnh đốn phong tục lễ nghi Đến đời Để điều hành và cai quản đất nước có kỉ cương thống nhất, ở thời vua Lê Thánh Tông (1470 – 1497), nhà nước phong kiến đã ban hành bộ luật Hồng Đức. Trong quá trình phổ cập hệ thống lễ giáo phong kiến theo kiểu Nho giáo, triều đình nhà Lê cũng đã chú trọng đến việc chỉnh đốn công việc cưới xin, bằng cách thể chế hóa những qui định về cưới hỏi được ghi trong luật Hồng Đức, cùng các lệnh chỉ, bổ sung hướng dẫn thêm khi thực hiện tại các làng xã ở nông thôn nước ta. – Một là Lễ định thân hay còn gọi là Lễ vấn danh. Vào ngày hôm đó, nhà trai sắm sửa lễ vật cáo với tổ tiên tại nhà thờ họ; nếu không có nhà thờ họ thì tổ chức cúng lễ ở nhà hương hỏa (nhà người thờ tự ông bà Tổ Tiên). Sau đó nhà trai mang lễ vật đến chạm ngõ nhà gái dọn cổ rượu ra thết đãi nhà trai và nhân đó nhà trai vấn danh cô dâu tương lai, tế nhị tìm hiểu thêm về gia cảnh cùng họ hàng nhà gái. – Hai là Lễ ăn hỏi, hay còn gọi là Lễ dẫn cưới. Vào ngày hôm đó nhà trai nhờ người làm mối dẫn đoàn nhà gái. Người làm mối thay mặt nhà trai xin ý kiến nhà gái ấn định ngày đón dâu, làm lễ thân nghinh. Rồi người mối cùng chủ hôn nhà trai tham gia bàn bạc việc hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nhà để tiến hành các thủ tục tiếp – Ba là Lễ thân nghinh còn gọi là Lễ thành hôn, mà trong đó có một nghi lễ rất quan trọng không thể thiếu là lễ đón rước dâu. Vào ngày hôm ấy, ông chủ nhà trai làm lễ cáo yết gia tiên và cử người đi đón dâu. Đoàn đón dâu của nhà trai có chú rể cùng đi đến nhà gái, được nhà gái tiếp đón niềm nở. Chủ nhà gái cử hành lễ cáo trình với tổ tiên về việc con gái đã có người đến ăn hỏi. Lễ bái gia tiên xong, người mẹ chỉ đưa tiển người con gái ra tới cửa nhà. Sau đó đoàn rước dâu nhà trai đưa cô dâu Vào sáng sớm ngày hôm sau, cô con dâu đến chào bố mẹ chồng. Sang ngày thứ ba bố mẹ chồng đưa con dâu đến làm lễ trình diện tại nhà thờ tổ tiên của dòng họ bên nội (nhà chồng). Còn người con rể phải sửa soạn lễ vật cùng vợ đến nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt vào ngày thứ tư sau ngày cưới. Trong luật Hồng Đức còn có các điều khoản quy định cấm việc hôn nhân phi loại (loạn luân) như: Người cùng họ trong vòng năm bậc tang phục và cùng là con cô, con cậu, đôi con dì còn bị cấm lấy nhau. Nhưng cháu cậu lấy cháu cô thì không cấm. Trong các trường hợp kể vô loại cố tình lấy cô, dì, chị em gái, kế nữ (con gái riêng của vợ) cùng những người họ hàng thân thích đều bị xử tội loạn luân. Ngoài ra, luật pháp còn cấm cưới vợ, gả chồng khi người đó đang có tang ông bà, cha mẹ hay tang chồng. Tuy nhiên, nếu ông bà, cha mẹ mới chết trong vòng một ngày thì được phép cưới chạy tang. Trong trường hợp người chết đã hai, ba ngày thì không được cưới nữa phải chờ ba năm sau đoạn tang thì mới được phép làm đám cưới. (4) Như vậy, có thể coi các điều khoản quy định về việc cưới hỏi trong luật Hồng Đức là văn bản pháp lí đầu tiên của nhà Theo xu hướng tiến bộ đó, ông Hồ Sĩ Dương, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đỗ tiến sĩ năm 1652, niên hiệu Khánh Đức năm thứ tư, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, tước Duệ Quận công dưới triều vua Lê Thần Tông và chúa Tây Đô vương Trịnh Tạc, niên hiệu Thịnh Đức) đã tham khảo một số sách lễ của Trung Quốc như Chu lễ, Nghi lễ, Lễ kí do Chu Công soạn cùng các quy định về hôn nhân trong luật Hồng Đức; đồng thời ông còn cố gắng tìm kĩ lưỡng các tập tục và tín ngưỡng tốt đẹp của người Việt còn đang lưu truyền trong nhân gian, để biên soạn ra cuốn: Hồ Thượng thư gia lễ, trong đó có các qui định về thượng thư nghi lễ trong quan, hôn, tang, tế, để dùng cho người Việt từ Bắc sông Gianh trở ra. Tuy vậy, khi đó cuốn sách này chỉ được áp dụng phổ biến trong tầng lớp quí tộc phong kiến mà thôi. Đến đời con cháu của Hồ Sĩ Dương tiên sinh Thọ Mai Hồ Sĩ Tân, đỗ tiến sĩ năm 1721, niên hiệu Về sau, đến thời nhà Nguyễn cai trị đất nước, cũng ban hành bộ luật Gia Long có tham khảo Bộ luật Hồng Đức của nhà Hậu Lê về một số điều khoản liên quan đến hôn nhân và gia đình, để cho dân chúng làm cơ sở pháp lí mà thi hành. Tuy nhiên, dân chúng sống tại các làng xã nông dân làm Như vậy theo sách Thọ mai gia lễ của tiến sĩ Hồ Sĩ Tân và sau này theo sách Việt Nam phong tục của nhà văn hóa, phong tục học Phan Kế Bính, cùng với các cuốn sách khác đã công bố thì trong hôn lễ cổ truyền của người Việt phải có 6 lễ gồm: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Thỉnh kì, Nạp tệ, Thân nghinh. Trong đó lễ Nạp thái còn gọi là lễ dạm hỏi hay lễ Chạm ngõ. Sau khi cha mẹ đã chọn được người con gái để cưới cho con trai của mình, thì họ phải mời người làm mối lái sang nhà gái để thuyết phục. Đến khi nhà gái bằng lòng thì nhà trai Còn đối với những nhà bình dân thì chưa thấy sách nào ghi chép một cách cụ thể (?). Tuy nhiên, về hình thức thì vẫn có đủ nghi lễ, song lễ vật cũng còn phải tùy theo hoàn cảnh kinh tế của từng nhà mà thu xếp cho vừa phải, nhưng dù sao cũng không thể thiếu một đĩa cau trầu têm cánh phượng, vì trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca: “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Nhà trai đưa lễ vật đầu tiên này đến nhà gái với ý nghĩa mong được hỏi vợ cho con trai mình ở nơi ấy. Đến khi làm lễ Vấn danh, họ nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt, rồi nhờ người mai mối đem lễ vật đến nhà gái để hỏi ngày sinh tháng đẻ, cùng tên tuổi của người con gái muốn cưới. Lễ vật mang Xưa kia chỉ các nhà quyền quý thích bày vẽ nên họ làm tách bạch riêng từng nghi lễ Tiếp đến là nạp tệ, thì nhà trai cho người đưa các sính lễ đến cho nhà gái. Đây là lễ hỏi chính thức, nên ngoài các lễ vật như trầu cau, trà, rượu, bánh trái, còn có cả đồ nữ trang cho cô dâu; hoặc phong bao một số tiền mặt. Sau cùng là lễ Thỉnh kì, nhà trai xin nhà gái ấn định ngày tổ chức đám cưới chính thức. Đây là ngày mà cô gái có quyền lựa chọn, để cho nhà trai đón rước mình về nhà chồng. Vì vậy, cô gái sẽ phải chọn ngày lành tháng tốt, nhưng tránh những ngày nguyệt kì trong tháng để khỏi bị ô uế cho bản thân và cho gia đình. Mặc dù trong sách Thọ mai gia lễ viết là 3 lễ: Nạp cát, Nạp tệ, Thỉnh kì, nhưng từ trước đến nay, người dân đất Việt vẫn gộp ba lễ lại thành một lễ gồm 3 bước cho tiện. Có nghĩa là ngay sau khi làm lễ ăn hỏi xong, thì nhà trai thường được nhà gái nêu việc “Thách cưới” để cùng nhau bàn bạc và thương lượng các lễ vật, cùng tiền bạc để chi phí cho đám cưới, và việc mua sắm nữ trang cho cô dâu. Vì thế, có người gọi đây là lễ dẫn cưới chăng? Cuối cùng là lễ thân nghinh, tức lễ cưới chính thức được cử hành trọng thể Ngoài 6 nghi lễ kể trên trong một cuộc hôn lễ cổ truyền, còn có một số nghi lễ hay tục lệ có liên quan trực tiếp đến việc hôn nhân như: lễ lại mặt, tục đi sêu, tục nạp cheo, tục thách cưới, tục tảo hôn, và tục cưới chạy tang. Những cổ tục lạc hậu này đến nay không còn phù hợp nữa, đã bị bãi bỏ hoàn toàn. Chỉ còn lễ lại mặt là có nhiều nhà vẫn làm Trong thời thuộc Pháp, các đám cưới ở thành thị đã giảm bớt khá nhiều các thủ tục không hợp thời của các nghi lễ cưới xin cổ truyền, người ta chỉ thực hiện các nghi lễ chính như lễ ăn hỏi (theo cách gọi của người phương Tây là lễ đính hôn) và lễ cưới (hay lễ thành hôn) mà thôi. Nhiều nhà giàu có phong tục của người phương Tây, sau đám cưới đôi vợ chồng trẻ dẫn nhau đi hưởng tuần trăng mật ở những nơi danh lam thắng cảnh. Trong những năm đầu của thế kỉ 20, ở Theo nhà nghiên cứu Phạm Công Sơn, vào khoản những năm 1910 – 1920, tại Hà Nội có xe hai ngựa kéo, gọi là xe song mã cho đám cưới thuê. Xe song mã được trang trí rất đẹp và sang trọng, di chuyển thong thả. Người ta chỉ dùng 4 xe là đủ và không bao giờ dùng số lương xe lẻ, vì Như vậy, phong tục cưới hỏi của người Việt 2. Văn hóa hôn lễ trong thời đại mới (từ sau 1945 đến nay) Thời kì lịch sử từ sau năm 1945 đến nay ở nước ta có thể chia ra làm các giai đoạn như sau: 1. Văn hóa hôn lễ trong giai đoạn chiến tranh (1946 – 1975); và 2. Văn hóa hôn lễ trong giai đoạn từ năm 1976 đến nay. 2.1 Văn hóa hôn lễ trong giai đoạn chiến tranh (1946 – 1975) Trong giai đoạn chiến tranh chống Pháp (1946 – 1954) thì hôn lễ của dân chúng ở các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn… vẫn diễn ra một cách bình thường theo phong tục truyền thống và có du nhập thêm một số yếu tố trong văn hóa hôn lễ của phương Tây như đã nói ở phần trên; mặc dù khi đó Hà Nội là Thủ đô của cả nước, song lại nằm trong vùng tạm chiếm, nên ít thay đổi. Còn ở vùng nông thôn nơi bị tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ và các địa phương khác trong cả nước, dân chúng có xu hướng giảm tiện bớt những bước không thực sự cần thiết, chỉ thực hiện hai lễ chính là lễ ăn hỏi và lễ chính mà thôi. Việc ăn uống cỗ bàn trong đám cưới cũng được tiến hành đơn giản hơn trước nhiều. Đặc biệt ở những khu giải phóng, do hoàn cảnh chiến tranh, kinh tế còn nghèo nàn, thiếu thốn, nên hôn lễ được tổ chức theo nếp sống mới: đơn giản, tiết kiệm, vui tươi, lành mạnh do các tổ chức đám cưới “tập thể” cho vài đôi trong cùng một buổi hôn lễ chung. Sau phần lễ cưới Trong giai đoạn chiến tranh chống Mĩ (1954 – 1975), nước ta tạm bị chia cắt thành hai miền. Ở miền Nam, người dân vẫn tiến hành tổ chức hôn lễ theo phong tục cổ truyền và có du nhập khá nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai trong hôn lễ như trang phục của cô dâu, và chú rể, cũng như người đến dự đều ăn mặc theo kiểu phương Tây (đặc biệt là các đô thị lớn như Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn…). Kể cả trong việc ăn uống, tiệc tùng trong đám cưới thì người ta sử dụng nhiều đồ ăn thức uống của người phương Tây, cùng với xe hơi sang trọng và váy đầm. Khi đó ở miền Bắc tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trên lĩnh vực văn hóa cũng có nhiều chuyển biến văn hóa tích cực, đặc biệt là trong đời sống sinh hoạt phong tục xã hội như việc cưới xin cũng đã được tổ chức theo nếp sống mới, tuy cũng đủ các bước chính đó là lễ ăn hỏi theo phong cách mới. Sau khi nhà trai nhà gái đã tổ chức lễ ăn hỏi rồi thì đôi trai gái đi làm thủ tục đăng kí kết hôn tại cơ quan của chính quyền sở tại. Trong thời kì chiến tranh chống Mĩ, ở miền Bắc nói Trong bối cảnh đó, tình hình văn hóa hôn lễ ở miền Nam, nhiều gia đình giàu có làm ăn sinh sống tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… thì vẫn tiếp tục tổ chức hôn lễ theo phong cách của người phương Tây. Còn phần lớn nhân dân lao động sống trong vùng tạm chiến của Mĩ – Ngụy, thì tiến hành tổ chức hôn lễ 2.2. Văn hóa hôn lễ trong giai đoạn từ năm 1976 đến nay 2.2.1 Văn hóa hôn lễ trong giai đoạn 1976 – 1986 Trong giai đoạn (1976 – 1986), văn hóa hôn lễ ở nước ta về cơ bản vẫn giống như ở Trước tiên là lễ ăn hỏi hay lễ đính hôn, được tiến hành Sau lễ ăn hỏi, đôi trai gái đưa nhau ra Ủy ban Nhân dân phường, xã để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nghi thức đăng kí kết hôn được tổ chức long trọng tại văn phòng Ủy ban Nhân dân xã, phường. Đây là một nghi thức mới đã được thực hiện ở miền Bắc trong giai đoạn trước, khi đó người đại diện chính quyền tiến hành nghi thức trao đăng kí kết hôn cho đôi trai gái và căn dặn những điều liên quan đến quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của đôi vợ chồng trẻ trước gia đình và xã hội. Làm thủ tục đăng kí kết hôn, xong đôi vợ chồng trẻ về viết thiếp mời, gửi đến bạn bè thân quen, mời họ thu xếp thời gian đến dự đám cưới của mình. Sau một thời gian chuẩn bị, đến ngày cưới, hai bên gia đình họ nhà trai và nhà gái sửa soạn lễ vật để cúng gia tiên. Lễ vật gồm chai rượu trắng, mâm xôi, con gà và đĩa trầu cau. 2.2.2 Văn hóa hôn lễ từ năm 1986 đến nay. Đây là thời kì đổi mới, Đảng và nhà nước ta chủ trương xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nghèo nàn và lạc hậu; đời sống của cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Sau một vài năm tiến hành đổi mới, sản lượng lương thực và thực phẩm của nước ta ngày càng tăng nhanh, đáp ứng được mọi nhu cầu cấp thiết của nhân dân trong nước, dẫn đến đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội ta ngày càng phồn thịnh. Đó là những nguyên nhân chính thúc đẩy các sinh hoạt văn hóa như: tín ngưỡng, phong tục, lễ hội cổ truyền được mau chóng phục hồi và phát biểu theo xu hướng vừa bảo lưu giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp thu một cách sáng tạo có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại trong thời đại mới hiện nay. Vì vậy, văn hóa hôn lễ của người Việt Nam nói chung cũng phải vận động và biến đổi theo quy luật chung của thời đại. Sau vài năm đổi mới đã xuất hiện một mô hình đám cưới mới ở Hà Nội các đô thị lớn khác trong cả nước, vẫn mang nội dung của phong tục truyền thống, nhưng được tổ chức theo phong cách mới văn minh hiện đại. Về hình thức, phần lớn đám cưới ở Hà Nội và các đô thị lớn khác được tổ chức long trọng, văn minh lịch sự theo đúng quy chế của pháp luật và phù hợp với phong tục cổ truyền dân tộc. Nhiều gia đình làm ăn khá giả, đã tổ chức đám cưới cho con cái họ tại các nhà hàng hoặc khách sạn sang trọng. Việc rước đón dâu của nhà trai được thực hiện bằng xe ô tô con đời mới, được trang hoàng đèn hoa lộng lẫy Tuy nhiên về nội dung của một cuộc hôn lễ, người ta vẫn tổ chức theo 3 bước, gắn liền với 3 nghi thức chính gồm: Lễ ăn hỏi (hay lễ đính hôn), nghi thức làm thủ tục đăng kí kết hôn (tại văn phòng Ủy ban Nhân dân xã, phường), và lễ cưới (hay lễ thành hôn).Trong đó lễ ăn hỏi được tổ chức theo kiểu truyền thống, như lễ vật phải là trầu cau, trà rượu, bánh su sê, bánh cốm, mứt hạt sen, thuốc lá. Các lễ vật này thường được đặt lên mâm (trầu cau, trà rượu) và các quả tráp (bánh trái), sơn son thếp vàng, và số lượng tùy theo, thường là hai mâm trầu cau, trà rượu), và các quả tráp (bánh trái), sơn son thếp vàng, và số lượng tùy theo, thường là 2 mâm cau trầu, rượu, trà, thuốc lá, và 4 quả tráp để bánh su sê, bánh cốm, mứt hạt sen… Nhiều đám hỏi còn có cả thủ lợn quay. Đến ngày làm lễ ăn hỏi, nhà trai cử một đoàn gồm các vị đại diện và những người thân mang lễ vật sang nhà gái. Nếu ở gần thì nhà trai thuê khoảng chục chiếc xe xích lô du lịch để chở lễ vật sang nhà gái. Nếu ở gần thì nhà trai thuê khoảng chục chiếc xe xích lô du lịch để chở lễ vật và những người nhà trai; còn ở xa thì nhà trai thuê một chiếc xe ô tô loại 24 chỗ ngồi để chở đoàn nhà trai đi ăn hỏi. Khi đến gần nhà gái thì mọi người xuống xe, sắp xếp doội hình: đi đầu là một vị cao niên mặc lễ phục, tay cầm hương; tiếp đến là chàng rể tương lai, mặc complê, tay bưng khay trầu rượu; đi bên cạnh lui về phía sau một chút là hai chàng thanh niên bưng 2 mâm trầu cau; theo sau là các cô gái mặc áo dài tân thời, tay bưng quả tráp lễ vật, họ đi theo hai hàng dọc. Tiếp đến là các vị đại diện nhà trai và bố mẹ chàng trai cũng đi sóng hàng đôi (nếu là vợ chồng), còn không thì những người cùng giới phải đi từng cặp với nhau. Khi đoàn nhà trai đến cổng nhà gái đã có người đứng chờ sẵn ở đó để đón đoàn. Vị đại diện nhà gái vồn vã chào hỏi và mời đoàn nhà trai vào tiếp kiến;đồng thời nhà gái cử người ra đón lễ vật của nhà trai đem sang, rồi đưa lễ vật vào xếp ngay ngắn lên bàn thờ gia tiên, để nhà gái làm thủ tục cúng gia tiên. Khi mọi người có mặt đã an vị, chủ hôn nhà gái thắp đèn, châm hương, rồi cử hành lễ cúng trình báo với tổ tiên về việc con gái đã có nơi ăn hỏi, xin tổ tiên ông bà phù hộ cho cháu gái được hạnh phúc bền lâu. Sau đó chủ hôn nhà gái làm lễ đính hôn cho đôi trai gái trước bàn thờ gia tiên nhà gái, với sự chứng kiến của đại diện của hai họ. Kể từ đây, hai gia đình chính thức là thông gia. Lễ đính hôn vừa xong thì vị đại diện nhà gái mời họ nhà trai dự bữa tiệc ngọt do nhà gái khoản đãi, để cùng bàn tiếp việc cưới xin cho hai trẻ. Bên họ nhà gái sau ít phút bàn bạc đã thống nhất với đề nghị của nhà trai. Kết thúc bữa tiệc ăn hỏi thì nhà gái tiến hành lại quả cho nhà trai một phần lễ vật theo phong tục cổ truyền; còn phần lớn lễ vật do nhà trai mang sang, nhà gái chia ra thành các phần nhỏ gồm: 1 quả cau, 1 lá trầu, 1 chiếc bánh cốm, 1 chiếc bánh su sê, 1 gói mứt sen, một ấm trà, và vài ba điếu thuốc lá; rồi cho vào một chiếc túi màu hồng điều có in chữ “Song hỉ” rất trang nhã, để đem biếu bà con hàng phố, hàng xóm láng giềng và bạn bè cùng cơ quan, nhằm thông báo cho mọi người biết con gái nhà mình đã có nơi, có chốn để họ chia vui và chúc mừng. Sau lễ ăn hỏi ít ngày, đôi trai gái cùng nhau ra Ủy ban Nhân dân phường, xã làm thủ tục đăng kí kết hôn Đăng kí kết hôn xong, đôi vợ chồng trẻ bắt tay ngay vào việc chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho đám cưới của mình. Việc đầu tiên, họ đi chọn mẫu để in thiếp mời theo số lượng và ngày giờ đã dự kiến của đôi bên gia đình trong lễ ăn hỏi. Thông thường thiếp mời sẽ được gởi đến cho khách khứa và bạn bè trước ngày cưới hàng tuần lễ, để người ta còn thu xếp công việc và thời gian tới dự đông đủ. Sau đó, cô dâu chú rể cùng lo mua sắm quần áo cưới, giường đệm, chăn màn mới tinh… Điều kiện kinh tế bây giờ đã cho phép chú rể may sắm một bộ complê, áo trắng cổ còn, giày da mới; còn cô dâu thì thuê hoặc mua một bộ áo cưới sang trọng theo mốt mới hiện đại để mặc trong ngày cưới. Trước ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ có thể đến ảnh viện để chụp ảnh nghệ thuật (kĩ thuật số). Việc tiếp theo là thuê nơi tổ chức bữa tiệc cưới. Nếu tổ chức tại gia thì chỉ việc lo thuê nhà bạt, bàn ghế, bát đĩa, cốc chén, đài điện, phông màn… cửa hàng dịch vụ; và lo luôn cả việc đặt cỗ tiệc cưới tại nhà hàng cho tiện. Tại các thành thị lớn thường thuê nhà hàng hay khách sạn. Vào mùa cưới (là 3 tháng cuối năm: 10, 11 và 12 âm lịch), các gia đình có cưới hỏi phải lo đăng kí thuê địa điểm trước vài tuần lễ mới có chỗ mà mình muốn, đúng với ngày giờ tổ chức đám cưới đã được ấn định trước từ lễ ăn hỏi. Vì thế mà chi phí cho đám cưới tại gia cũng rẻ hơn nhiều so với làm đám cưới ở nhà hàng, khách sạn. Trong những năm gần đây, phần lớn đám cưới của người Hà Nội, hoặc ở những thành phố lớn đều thuê xe con dạng sang để chở cô dâu chú rể và xe 12 chổ hoặc xe 24 chỗ để chở các cô phù dâu, các cậu phù rể và những nam thanh nữ tú làm nhiệm vụ bưng mâm hay ăn hỏi hoặc lễ đón dâu, hay lễ đưa dâu và lễ cưới. Theo phong tục cổ truyền, đến ngày tổ chức đám cưới thì cả hai gia đình thông gia đều sửa soạn một mâm lễ vật để cúng trình gia tiên, nhằm mục đích trình báo cho ông bà tổ tiên biết về việc đám cưới của con cháu trong nhà. Đến khoảng 8 giờ sáng, nhà trai tiến hành đưa lễ dẫn cưới sang nhà gái, rồi chuẩn bị cho lễ tuyệt cưới lúc 10h30` tại địa điểm đã ghi trong thiếp mời. Đồng thời nhà gái cũng khẩn trương lo cho bửa tiệc cưới bên nhà mình cho thật chu đáo cùng ngày giờ cho bên nhà trai. Tại nơi ăn cưới của nhà trai hoặc nhà gái, đều được trang hoàng lộng lẫy và sang trọng. Khi khách khứa và bạn bè thân hữu đến dự, thì đại diện của gia đình chào đón niềm nở, rồi được người tiếp tân dẫn khách vào phòng uống trà, hút thuốc, ăn bánh kẹo. Khi đã đủ người ngồi mâm thì chủ hôn hoặc gia chủ mời mọi người vào bàn ổn định chỗ ngồi để buổi tiệc cưới được bắt đầu. Rồi ông chủ hôn trịnh trọng tuyên bố lí do và kính mời quí vị cùng nâng cốc chúc mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ và chúc quý khách vui vẻ, ăn uống ngon miệng. Từ những điều mà chúng tôi vừa phân tích và lí giải trên đây, đã phần nào chứng minh được tiến trình vận động và biến đổi của văn hóa hôn lễ nói chung và văn hóa ẩm thực trong đám cưới nói riêng của người Việt Nam từ trước tới nay. Có thể coi đây là một phác thảo đầu tiên về bức tranh toàn cảnh của văn hóa hôn lễ ở nước ta từ truyền thống đến hiện đại. Trên cơ sở đó, những nhà quản lí văn hóa xã hội cần có những giải pháp thích hợp để phát huy các giá trị văn hóa của phong tục truyền thống vào đời sống xã hội đương đại, nhằm mục tiêu xây dựng nền văn hóa dân tộc ta vừa truyền thống, vừa hiện đại, lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. N.Q.L Tài liệu tham khảo (1) (2) Lê Thị Nhâm Tuyết, Nghiên cứu về hội làng cổ truyền của người Việt”, Văn hóa dân gian, Hà Nội, 1986, số 1, tr.3. (3) Vũ Quỳnh. Kiều Phú, Lĩnh (4) Hồng Đức thiện chính thư, do Ts. Nguyễn Sĩ Giác phiên dịch, Nam Hà ấn quán, Sài Gòn, 1959. – Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3 và tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972 -1973. – Một số văn bản pháp luật Việt (5) Trương Đình Tín, Phong tục Việt (6) Trương Đình Tín, Phong tục Việt (7) Phạm Côn Sơn, Lễ nghi cưới hỏi, tang chế Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003, tr.95 – 96./. |
Cập nhật ( 07/06/2009 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com