Tìm hiểu pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975-1986
* Nguyễn Thị Định
Giai đoạn từ năm 1975- 1986 là giai đoạn đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các tôn giáo ở nước ta thời kỳ này cũng có nhiều thay đổi, trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Giáo hội Công giáo ở cả hai miền Nam, Bắc được thống nhất vào một mối thì Giáo hội của các tôn giáo khác như đạo Cao đài, đạo Hoà Hảo, đạo Tin lành, đạo Hồi chưa được Nhà nước công nhận.
Mặc dù vậy, có thể thấy thời kỳ này đại đa số tín đồ các tôn giáo đều yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách tôn giáo và pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực xây dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh đó còn một số phần tử cực đoan có thù hằn với cách mạng vẫn tiếp tục chống phá nhà nước ta nên đã có những hành động chống lại dân tộc, xâm hại an ninh của đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần IV (1976) một lần nữa khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, đó là: chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo từ trước tới nay là tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, tôn trọng quyền theo đạo và không theo đạo của mọi công dân; đối xử bình đẳng về mặt pháp luật với các tôn giáo, đoàn kết tất cả những người yêu nước, tiến bộ trong các tôn giáo để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước, chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhằm cụ thể hóa quan điểm trên của Đảng, Nghị quyết 297-CP ngày 11/11/1977 về một số chính sách đối với tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã được ban hành. Nội dung Nghị quyết là sự kế thừa Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và các văn bản pháp luật ban hành trước đó, đồng thời bổ sung một số nội dung mới. Cụ thể Nghị quyết đã đưa ra Các nguyên tắc chung:
1. Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của nhân dân.
2. Các nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
3. Các tôn giáo và mọi công dân theo đạo hoặc không theo đạo đều bình đẳng trước pháp luật.
4. Các tôn giáo phải tuân thủ theo Hiến pháp, pháp luật và chủ trương, chính sách, thể lệ của Nhà nước trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình.
5. Những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập của Tổ quốc, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, chống lại các chính sách và pháp luật của Nhà nước sẽ bị luật pháp nghiêm trị.
Về hoạt động tôn giáo của tín đồ và nhà tu hành, Nghị quyết quy định:
– Tín đồ và nhà tu hành được hoạt động tôn giáo bình thường ở những nơi thờ cúng nhưng phải tôn trọng pháp luật của Nhà nước, không gây trở ngại cho việc giữ gìn trật tự trị an, cho sản xuất và sinh hoạt bình thường của tín đồ. Mỗi công dân được tự do tham gia hoặc không tham gia các hoạt động tôn giáo, không ai có quyền cưỡng ép người khác phải tham gia hoặc không được tham gia các hoạt động đó.
– Ngoài những cuộc hành lễ thông thường, những hoạt động tôn giáo như: những cuộc hành lễ có đông người từ các nơi khác đến dự; những lớp giáo lý; những cuộc hội họp của các tôn giáo (khoá hạ và Đại hội của Phật giáo, Đại hội đồng của Tin lành, cấm phòng linh mục của Thiên chúa giáo,…) phải xin phép Uỷ ban nhân dân xã, huyện hoặc tỉnh, thành phố.
– Những nhà tu hành và những người chuyên hoạt động tôn giáo được tự do giảng đạo tại nơi thờ cúng và trong các cơ quan tôn giáo. Khi truyền bá tôn giáo, ngoài việc giảng giáo lý, các nhà tu hành còn có nhiệm vụ động viên tín đồ làm tốt nghĩa vụ công dân và chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước; không được tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống chính quyền, chống chính sách, pháp luật của Nhà nước, không được tuyên truyền chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, tuyên truyền mê tín dị đoan.
Đối với nơi thờ cúng của các tôn giáo:
– Những nơi thờ cúng của các tôn giáo được Nhà nước bảo hộ; những nơi thờ cúng đã bỏ không từ lâu, không có người tu hành hoặc người chuyên trách, không có nhân dân đến lễ bái thì Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở có trách nhiệm quản lý, khi cần thiết có thể mượn làm trường học, nơi hội họp… nhưng phải giữ gìn chu đáo, không được dùng vào những việc xúc phạm đến tình cảm và tín ngưỡng của nhân dân, những nơi thờ cúng quá hư hỏng chính quyền muốn dỡ đi thì phải được nhân dân đồng tình và Uỷ ban nhân dân cấp trên đồng ý.
Đối với việc đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo:
– Các tôn giáo được mở trường lớp đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.
– Nghị quyết cũng quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc quản lý các hoạt động tôn giáo.
– Những người được tuyển chọn để đào tạo phải là những người có tư cách công dân, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Khi mở trường lớp, các tôn giáo phải xin phép Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc cấp tương đương và tuân theo những quy định sau:
+ Học sinh được tuyển để đào tạo phải do Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở nơi quê quán hoặc nơi đang ở xác nhận là công dân tốt, không vi phạm pháp luật.
+ Những người phụ trách giảng dạy trong các trường lớp tôn giáo phải được Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc cấp tương đương chấp thuận.
+ Nội dung giảng dạy về tôn giáo không được trái pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước.
+ Nếu các trường lớp này có dạy thêm văn hoá thì phải theo chương trình của Bộ Giáo dục nhưng có châm chước. Các Sở, Ty Giáo dục có trách nhiệm xem xét chương trình, nội dung giảng dạy và tổ chức việc phổ biến thời sự, chính sách cho học sinh.
– Về việc phong chức, bổ nhiệm những người chuyên hoạt động tôn giáo (kể cả người do tín đồ bầu ra) phải được chính quyền chấp thuận. Tuỳ theo phạm vi hoạt động tôn giáo của những người này trong một xã, huyện, tỉnh hoặc thành phố mà Uỷ ban nhân dân xã, huyện, tỉnh hoặc thành phố chấp thuận. Nếu phạm vi hoạt động tôn giáo bao gồm nhiều tỉnh, thì phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
– Việc thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo từ nơi này đến nơi khác phải được sự chấp thuận trước của Uỷ ban nhân dân nơi đến.
Đối với cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội của các tôn giáo, Nhà nước quy định:
– Những cơ sở kinh tế của tôn giáo kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa hoặc phong kiến thì Nhà nước sẽ tiến hành cải tạo theo chính sách chung hiện hành, có sự chiếu cố đến tôn giáo.
– Ruộng đất của tôn giáo được để lại sau Cải cách ruộng đất có thể giao cho hợp tác xã quản lý; hợp tác xã trả hoa lợi cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất với mức từ 25% đến 30% tổng số thu hoạch của ruộng đất đó.
– Các cơ sở văn hoá, giáo dục, xã hội của các tôn giáo phải tuân theo quy định chung của Nhà nước.
Đối với tài liệu và đồ dùng việc đạo của các tôn giáo, Nhà nước quy định: các tổ chức tôn giáo được xuất bản những tài liệu tôn giáo và sản xuất những đồ thờ cúng nhưng phải tuân theo chế độ chung của Nhà nước (chế độ xuất bản, chế độ sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp…). Nếu muốn nhập những thứ ấy từ nước ngoài vào thì phải theo thể lệ của Nhà nước và phải được phép của các cơ quan quản lý (Bộ Văn hoá, Cục Hải quan trung ương).
Về quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo trong nước với các tổ chức tôn giáo quốc tế và nước ngoài:
– Các tổ chức tôn giáo hoặc người hoạt động tôn giáo trong nước muốn quan hệ với các tổ chức tôn giáo hoặc các tổ chức khác hoặc với người nước ngoài thì phải tuân theo những quy định của Nhà nước về quan hệ với người nước ngoài.
– Giáo hội Thiên chúa được quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền quốc gia và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi một giáo sĩ Việt Nam được Vatican lựa chọn phong từ chức giám mục trở lên thì giáo hội Công giáo phải báo cáo để được chấp thuận trước của Chính phủ nước ta.
– Những tài liệu tôn giáo từ các tổ chức tôn giáo nước ngoài gửi cho các tổ chức tôn giáo nếu có nội dung trái pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì các tổ chức tôn giáo không được phổ biến và thực hiện.
Hiến pháp năm 1980, vấn đề tôn giáo lại được Nhà nước một lần nữa khẳng định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Ngoài các quy định trên đây của Nghị quyết 297- CP ngày 11/11/1977 và Hiến pháp năm 1980, một loạt các văn bản khác cũng có các quy định liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như: Luật Bầu cử Quốc hội năm 1980; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1982; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1984; Bộ luật Hình sự năm 1985; Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Ban Tôn giáo chính phủ; Nghị định số 228/TTg ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành “Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam, thắng cảnh”; Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981 của Bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng về việc cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam; …
Như vậy, có thể thấy là hệ thống văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo giai đoạn này ban hành không nhiều nhưng nhiều nội dung quản lý đã được bổ sung, điều chỉnh và đầy đủ hơn giai đoạn 1954- 1975. Có thể kể đến các nội dung như: những quy định về sinh hoạt tôn giáo của các nhà tu hành và tín đồ; cơ sở vật chất của giáo hội; việc đào tạo, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo; quan hệ quốc tế của các tôn giáo; trách nhiệm của chính quyền các cấp với hoạt động của các tôn giáo. Mặc dù các văn bản quy định về hoạt động tôn giáo thời kỳ này đã không còn ban hành dưới hình thức sắc luật hay sắc lệnh của Chủ tịch nước, nhưng các quy định còn ở dạng nguyên tắc, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên thiếu sự thống nhất thực hiện trên phạm vi toàn quốc.