24/12/2009 |
* Trần Đình Sơn Năm 1858, liên quan Pháp – Tây Ban Nha chính thức tấn công Đà Nẵng, sau đó rút vào đánh chiếm miền I. Năm,Vua Minh Mạng ra lệnh bộ công thiết kế bản vẽ xây dựng chùa Khải Tường tại thôn Tân Lộc, bên phải thành Gia Định để kỷ niệm nơi vua được sinh ra. Đây là quốc tự lớn nhất miềm “ Cám nỗi chùa hư Phật phải rầu Nắng rọi mõ chuông khô nứt mặt Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu Rằm ngươn vắng kẻ dâng vùa nếp Hôm sớm không ai cúng phụng dầu Đức cả từ bi xin sớm liệu Ngồi chờ Lương Võ thế còn lâu.” Năm 1880, thực dân Pháp cho triệt hạ chùa Khải Tường để xây công trình mới, đem pho tượng Phật lớn về cất giữ ở trong kho phủ toàn quyền. Năm chục năm sau,ngày II. Được kiến tạo dưới triều vua Lý Thái Tông (1054-1071), đặt tên là “Sùng Khánh Bào Thiên Tự”, ngoài vườn chùa có “Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp”, cao 12 tầng (khoảng 60m), chóp tháp đúc bằng đồng, các tầng xây bằng gạch ghi niên đại” Lý gia đệ tam đế, Long Thụy thái bình tứ niên tạo”. (1057). Bảo tháp này 1 trong 4 công trình được mệnh danh” An Nam Tứ Đại khí” thời Lý Trần. Danh Nho Phạm Sư Mạnh đã cảm xúc ca ngợi. Đề Trấn áp đông tây cũng đế kỳ Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy Sơn hà bất động kình thiên trụ Phong bãi Tinh di đăng chúc dạ quang huy Ngã lai dục thử đề danh bút Quản lĩnh xuân giang tác nghiễn trì Dịch thơ: Trấn áp đông tây giữ đế đô Hiên ngang ngọn tháp đứng trơ trơ Non sông vững chãi tay trời chống Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp Đêm đêm sao xế đuốc khôn mờ Tới đây những muốn dầm ngòi bút Chiếm cả dòng sông mài mực thơ (Đào Thời quân Minh xâm lăng nước ta, năm 1426 tướng giặc Vương Thông cần lấy đồng đúc khí giới chống lại nghĩa quân Lam Sơn nên đã phá hủy nóc tháp cùng với các bảo vật bằng đồng khác như chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm. Sau khi đuổi giặc Minh, đến thời vua Năm 1883, sau khi Hiện nay chỉ còn sót lại 1 giếng đá cổ chạm khắc hoa sen rất đẹp. Sau khi chúng tôi công bố các bài báo giới thiệu giếng cổ Nhà thờ đã cho di chuyển giếng vào trước hang đá Đức Mẹ vào năm 2005. IV. Chùa do Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai tổ chức xây dựng dưới thời vua Thiệu Trị (1841 – 1847) trên nền cũ lầu Ngũ Long của chúa Trịnh, thuộc thôn Chùa có tên chính là “BÁO ÂN TỰ”, nhưng dân gian còn gọi là chùa LIÊN TRÌ hoặc chùa QUAN THƯỢNG. Căn cứ Từ con đường ven hồ phía Đông dẫn vào có tháp “Phong quang cảnh trí trăm đường, Trong xây chín giếng, ngoài tường lục Rõ mười cửa động Đền vàng tòa ngọc chất từng như nêm…” Quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần đầu tiên 2873, năm 1876 ông Trương Vĩnh Ký theo lệnh của Đô đốc Duperré ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình, ông có đến viếng chùa BÁO ÂN và mô tả trong sách “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi – 1876” – (Sàigòn, Guilland et Martion, 1881 – Tr. 5). Sau khi đất nước bị mất chủ quyền hoàn toàn, kể từ Trước tiên là quốc tự BÁO THIÊN, tồn tại suốt 1000 năm đã bị Giám mục Puginier cùng với công sứ Bonnal và Nguyễn Hữu Độ làm phép lạ để biến thành: nhà thờ chính tòa Hà Nội (xây dựng từ năm 1883 và khánh thành ngày 23/12/1887). Kế tiếp, chùa BÁO ÂN nằm trong tầm ngắm của giặc bị phá hủy hoàn toàn để xóa bỏ dấu ấn của triều Nguyễn tại cố đô Thăng Long. Các pho tượng Phật đẹp nhất bị Bonnal cướp đoạt đem về pháp. Hiện nay, chỉ còn sót lại 1 ngôi tháp Hòa Phong trơ trọi bên hồ Gươm làm chứng tích cho lời tuyên bố quả quyết của GM Puginier: “Tôi xác định rằng khi mà Bắc Kỳ trở thành Gia Tô giáo thì nó cũng trở thành nước Pháp nhỏ của Viễn Đông, y hệt như quần đảo Phi Luật Tân đã là một Tây Ban Nha nhỏ của (Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại V.N 91857 – 19140. Cao Huy Thuần – VI. Do ý chỉ của vua Minh Mạng (1820 – 1840) muốn xây dựng một ngôi chùa thờ Phật trên vùng đất phủ củ của mình để tụ linh khí, cầu phước cho hoàng gia. Năm 1839, bộ Công thiết kế bản vẽ, bộ Binh tuyển chọn 500 lính thợ đảm trách xây dựng chùa. Theo bản vẻ hiện còn: chùa tọa lạc trên vùng đất rộng 29.069m2, ở góc Đông Nam (gần cửa Thượng Tứ) bên trong kinh thành, thuộc phường thuận Thành, chùa quay mặt hướng Đông Nam. Từ ngoài đi vào là Tam quan, vườn cảnh, đến lầu Đây là nơi để tiếp sứ thần các nước trong khu vực đến chiêm bái, tổ chức các quốc lễ của triều đình, hoàng gia hằng năm. Vua Thiệu Trị xếp hạng Dẫn: Chỗ vựa sâu rồng ẩn Nơi đỉnh duyên lành Ghi niềm vui phát điềm tốt há vì mở rộng lớn việc thờ cúng tầm thường. Bày vẻ thịnh ban ơn phước thấm nhuần tỏ lòng yêu thương của bề trên rưới xuống. Mở ba thừa mà quần sanh thức tỉnh Nghe bốn đế mà vạn loại suốt thông Thơ: Đất nước trang nghiêm mở cửa thiền Điềm lành Rạng ngời tướng tốt thường chiêm ngưỡng Mầu nhiệm kinh vàng ý tưởng chuyên Tâm, Phật miễn bàn người đắc đạo Sắc, không dừng nghĩ lý đương nhiên Tình thương rưới khắp sinh linh khổ Trí tuệ sâu xa chiếu mọi miền. Biến cố thất thủ kinh đô (23/5 Ất Dậu – Chế độ quân chủ chấm dứt năm 1945, công trình này được sử dụng làm tòa án. Từ 1975 về sau đây là trụ sở ủy ban quân quản Cỏ hoa đổi mới tam tòa Thành xưa còn đó đâu là chùa xưa Cuộc đời dù nắng dù mưa Mùi hương chính pháp gió đưa dịu dàng. V. Tháng 6 năm Công trình này gồm điện Trùng Tiêu quay về hướng Tuy nhiên do tuyển được đạo sĩ đủ tài đức đảm trách nên từ đầu Vua đã cho phép bộ Lễ hội họp với sơn môn cung thỉnh các vị cao tăng giữ chức Trú trì và Tăng cang tại Quán nầy. Người đầu tiên là hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định. Do đó quán trở thành chùa Phật, làm nơi lễ bái của hoàng gia. Biến cố thất thủ kinh đô thời vua Ông NĐK trình xin chuyển nhượng công trình đã lỡ làm, sữa chữa thành chùa để bảo tồn di tích Chưa giải quyết xong sự việc thì tháng 7 năm 1907 vua Thành Thái bị Pháp truất phế đưa vào an trí ở Vũng Tàu. Ông NĐK cáo bệnh thay đổi ý kiến không chịu nhận tiền bồi thường nữa. Đến thời vua Duy Tân (1907 – 1916), NĐK bị quyết định cho rời chức vụ về hưu trí. Số tiền 300 đồng sung công. Mãi đến thời Ngô Đình Diệm, năm 1962 Tổng giám mục Ngô Đình Thục mới lấy đất di tích Linh Hựu để xây dựng ngôi giáo đường Tây Linh nguy nga đồ sộ như chúng ta thấy hiện nay. Ở Huế thời đó có truyền tụng mấy câu thơ châm biếm; Khi xưa một cục cũng rằng không! Bây chừ xây dựng cả một vùng Đẹp mặt chúa cha trên thượng giới Đau lòng con cháu với non sông! VI. Theo tờ liệu xưa còn lưu lại cho biết vào thời Minh Mạng (1820 – 1840) nhân dân 3 làng Thạch Hãn – Cổ Thành và Ba Trừ có chung nhau xây dựng một ngôi chùa khá lớn, thờ tự tượng pháp đầy đủ trang nghiêm tại vùng đất Lá vằng (có nhiều cây lá vằng mọc hoang, người dân thường lấy lá phơi khô làm thuốc nam), cách thành Quảng Trị khoảng 6km. Đến năm 1885, chùa bị đốt cháy và sau đó bị cưỡng chiếm xây dựng thành nhà thờ La Vang. Kể từ đó, địa điểm này nhanh chóng phát triển và được giáo hội * Từ 1886 – 1901: GM. GASPAR xây dựng một ngôi thờ ngói từ năm 1886 đến ngày * Từ 1924 – 1928: Ngày 20/7/1961, TGM Ngô Đình Thục chỉ thị: “La Vang là của Với những chỉ thị mẹ, quyết định như trên phải chăng chế độ Ngô Đình Diệm công khai công nhận Thiên Chúa là quốc giáo của nước Việt
|
Cập nhật ( 24/12/2009 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com