Tiến Trình Giải Thoát Cùa Đức Phật Khi Ngài Thành Đạo * HT. Thích Minh Châu Gia chủ Tapussa cùng với tôn giả Ananda đến hỏi đức Phật, vì sao giới cư sĩ gia chủ, “Thọ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục”. Xem đời sống viễn ly (Nekkhamma) của các vị xuất gia như vực thẳm. Tuy vậy, trong Pháp và Luật của Thế Tôn lại có những Tỳ-kheo trẻ tuổi phấn khởi trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú, hướng đến xuất ly, và các vị này thấy trong sự xuất ly “Ðây là an tịnh”. Chính ở nơi đây là sự sai khác trong Pháp và Luật này giữa các Tỳ kheo và phần đông quần chúng. Sự ngạc nhiên và khâm phục của Tapussa được Thế Tôn chấp nhận, và đức Phật kể lại kinh nghiệm của Ngài trong tiến trình thành đạo của Ngài dưới gốc cây Bồ-đề. Khi Ngài chưa thành bậc Chánh Giác, Ngài diễn tả sự phấn khởi của Ngài trong tiến trình tu tập vượt qua các chướng ngại để đạt được cảnh giới thiền, và vượt lên, đạt được các cảnh giới thiền cao hơn, tất cả đòi hỏi một sự phấn đấu kiên cường, sáng suốt bền bỉ và tuần tự. Và Ngài bắt đầu với cảnh Sơ thiền và đối tượng cần phải gạt bỏ là caùc dục để chứng Sơ thiền. Ngài suy nghĩ : “Lành thay sự xuất ly ! Lành thay, đời sống viễn ly”. Nhưng tâm của Ngài không có phấn khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến xuất ly, dầu Ngài có thấy “Ðây là an tịnh”. Rồi Thế Tôn suy nghĩ: “Do nhân gì, do duyên gì tâm ta không phấn khởi trong xuất ly, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy : “Ðây là an tịnh”. Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ : “Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong các dục, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích của sự xuất ly chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không phấn khởi trong sự xuất ly ấy. Không tịnh tín, không an trú, không có hướng đến. Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu sau khi tự thấy nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi tự chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy thời sự kiện này có thể xảy ra: “Tâm của Ta có thể phấn khởi trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú và hướng đến, vì Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. “Rồi nàøy Ananda, sau một thời gian, sau khi thấy được sự nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy, sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ananda, tâm Ta hưng khởi trong xuất ly, tịnh tín an trú, hướng đến, vì Ta thấy : “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, sau một thời gian Ta ly dục … chứng đạt và an trú sơ thiền. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh. Ví như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên, như là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ý câu hữu với dục vẫn hiện hành.” “Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau : “Vậy Ta hãy chỉ tức các tầm và tứ… chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Nhưng tâm của ta không có hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu ta có thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, về vấn đề này Ta suy nghĩ như sau: “Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với tâm không có tầm ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy : “Ðây là an tịnh”. Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: “Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong các tầm, Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích của sự xuất ly chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy, tâm Ta không hứng khởi đối với không có tầm, không tịnh tín, không an trú, không có hướng đến. Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu sau khi tự thấy nguy hiểm trong các tầm, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Sau khi tự chứng được lợi ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này có thể xảy ra : “Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú và hướng đến, vì Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. “Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong các tầm, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy, sau khi chứng được lợi ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, sau một thời gian ta diệt tầm và tứ … chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Do ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý câu hữu với tầm vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta, là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ý câu hữu với tầm vẫn hiện hành nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh”. “Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: “Vậy Ta ly hỷ … chứng đạt và an trú thiền thứ ba. Nhưng này Ananda, tâm của ta không hứng khởi đoái với không có hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: “Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong hỷ, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích không có hỷ chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến. Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung mãn trong hỷ ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không có hỷ. Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này xảy ra: “Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta có thấy: “Ðây là an tịnh”. “Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: “Vậy Ta hãy đoạn lạc, đoạn khổ … chứng đạt và an trú thiền thứ tư. Nhưng tâm của Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Do nhân gì, do duyên gì, tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, dầu Ta có thấy “Ðây là an tịnh”. Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: “Vì Ta không thấy sự nguy hiểm trong xả lạc, vì Ta không làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy. Lơïi ích không khổ, không lạc chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến. Này Ananda, về vaán đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung mãn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không khổ, không lạc, Ta thưởng thức lợi ích ấy, thời sự kiện này xảy ra: “Tâm của Ta có thể phấn khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta có thấy: “Ðây là an tịnh”. “Rồi này Ananda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung mãn sự nguy hiểm ấy, sau khi chứng được lợi ích trong không khổ, không lạc, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ananda, tâm Ta hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, sau một thời gian Ta xả laïc, xả khổ … chứng đạt và an trú thiền thứ ba. Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ý cùng khởi với xảû vẫn hiện hành, như vậy, đối với Ta, là một chứng bệnh. Ví như, này Ananda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ý cùng khởi với xả vẫn hiện hành nơi Ta, như vậy, đối với Ta là một chứng bệnh”. Tiếp tục như vậy, Ngài chứng thiền Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Diệt thọ tưởng định. Tại Không vô biên xứ thiền, Ngài vượt qua các sắc tưởng, tại Thức vô biên xứ Thiền Ngài vượt qua Không vô biên xứ, chứng đắc Thức vô biên xứ; Tại Vô sơû hữu xứ thiền, Ngài vượt qua thức vô biên xứ và chứng đắc Vô sở hữu xứ. Tại Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài vượt qua vô sở hữu xứ và chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tại Diệt thọ tưởng định, Ngài vượt qua Phi tươûng phi phi tưởng xứ và chứng đắc Diệt thọ tưởng định: “Ta phấn khởi trong Diệt thọ tưởng định, tịnh tín, an trú, hướng đến, vì Ta thấy “Ðây là an tịnh”. Này Ananda, sau một thời gian, ta vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định, Ta thấy với trí tuệ và các lậu hoặc đi đến đoạn diệt”. Như vậy là tiến trình giải thoát, thành đạo của đức Phật đi từ thiền thứ nhất, vượt qua thiền thứ hai, thứ ba, thiền thứ tư, vươït luôn bốn thiền ở vô sắc giới, chứng đạt Diệt thọ tưởng định, với trí tuệ đoạn trừ các lậu hoặc để thành bậc Chánh giác. Cứ mỗi thiền chứng đạt, an trú và vượt qua, Thế Tôn cần phải nỗ lực kiên trì đối với các trở ngại bệnh chướng của mỗi thiền và cuối cùng, Ngài tuyên bố : “Cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ trú thiền chứng chưa được Ta thuận thứ, nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa môn, và Bà la môn, chư Thiên và loài người cho đến khi ấy, Ta không xác chứng Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến khi nào, này Ananda, chín thứ đệ trú thiền chứng được Ta thuận thứ, nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ananda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa môn, và Bà la môn, chư Thiên và loài người cho đến khi ấy, Ta mới xác chứng rằng Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tri và kiến khởi lên nơi Ta, Ta biết rằng : “Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sinh nữa”. (Tăng Chi Boä Kinh III, tr. 283) Như vậy, tiến trình giải thoát của đức Phật cho thấy sự giải thoát giác ngộ của Ngài là cả một quá trình tuần tự, từ sơ thiền cho đến Diệt thọ tưởng định, để cuối cùng đoạn diệt các lậu hoặc, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. Trải qua chín thiền chứng như vậy, và tại mỗi thiền chứng Ngài phải phấn đấu vượt qua các chướng ngại, tiến lên thiền chứng kế tiếp, để cuối cùng chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy tiến trình thành đạo của Ngài là một tiến trình tuần tự tiến lên, từng thiền chứng một tiến lên thiền chứng kế tiếp, không có vấn đề nhảy vọt, vượt qua nhiều cấp bậc một lần. Tiến trình này cũng chứng tỏ khoâng có vấn đề hoát nhiên đại ngộ. Sự thành đạo của Ngài là cả một quá trình tu chứng kiên trì, lâu dài, bền bỉ, luôn luôn hướng thượng, như trong kinh này đã diễn tả. |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com