TẾT THANH MINH Ở BẠC LIÊU XƯA VÀ NAY * Trần Phước ThuậnTừ cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, có một số người Hoa vì không phục nhà Mãn Thanh đến nước ta xin tỵ nạn, được Nam triều cho cư ngụ ở các vùng đất phía Nam, ở đây họ đã hoà nhập cuộc sống với người Kinh và người Khmer – đã thắt chặt tình đoàn kết để cùng nhau khai hoang lập ấp xây dựng làng xã. Nhóm Trần Thắng Tài ở Biên Hòa, nhóm Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, riêng Mạc Cửu đầu tiên trú đóng ở Hà Tiên sau đó thành lập bảy thôn làng từ những khu vực phụ cận, đến năm 1704 Mạc Cửu được chúa Nguyễn phong làm Tổng trấn Hà Tiên, một vùng đất rộng lớn gần bằng Tây Nam Bộ hiện nay. Vùng Bạc Liêu (Pò Léo) lúc bấy giờ thuộc trấn Hà Tiên, tuy đất đai màu mở nhưng còn hoang sơ, khoảng năm 1757 Mạc Thiên Tích đưa lưu dân về đây khai phá. Lần đầu tiên vùng Pò Léo tiếp nhận cuộc sống cộng cư của ba dân tộc Kinh, Hoa và Khmer, cũng từ cuộc sống cộng cư đó đã diễn ra sự hòa nhập văn hóa rất đặc thù của ba dân tộc trên vùng đất này. Tuy mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, nhưng trong sinh hoạt đời thường luôn có sự hội tụ văn hóa của ba dân tộc.
Tết Thanh Minh vốn có nguồn gốc từ người Hoa, nhưng gần ba trăm năm nay đã được vun bồi và hưởng ửng của hai dân tộc anh em, cho nên Tết Thanh Minh ở Bạc Liêu mang một màu sắc rất độc đáo, sinh hoạt lễ và hội không giống như ở các nơi. Qua mười hai tháng trong năm có rất nhiều lễ tết; từ tết Nguyên Đán, Thanh Minh, đến tết Đoan Ngọ, Trung Thu…, mỗi cái tết đều là mỗi dấu ấn văn hoá tốt đẹp đã gắn liền với sinh hoạt trong đời sống con người. Thanh Minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức, với bổn phận con người – bổn phận của con cháu phải tưởng nhớ công lao của tổ phụ, của những người đi trước, đây chính là ngày giỗ tổ chung để mọi người có dịp báo hiếu, trả nghĩa – gọi là đền đáp một phần nào cái ơn sinh thành tạo dựng của tổ tiên. Cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã từng giới thiệu “Thanh Minh trong tiết tháng ba, lễ là Tảo Mộ hội là Đạp Thanh”. Thực ra không phải năm nào Thanh Minh cũng nhằm tháng ba, đôi khi cũng lọt vào tháng khác. Thanh Minh là tiết thứ năm trong 24 tiết khí trong năm, mỗi tiết khí được quy định là 15 ngày, vì vậy theo thói quen người ta thường gọi tháng Giêng có tiết Lập Xuân, Vũ Thủy; tháng hai có tiết Kinh Trấp, Xuân Phân; tháng ba có Thanh Minh, Cốc Vũ…. Nhưng nếu năm đó ngày đầu của tiết Lập Xuân trước tết Nguyên Đán (có nghĩa là trước tháng giêng) thì ngày chính của tết Thanh Minh không thể ở tháng ba được, thí dụ như trong năm 2002, ngày chính của tết Thanh Minh là ngày 23 tháng 2 âm lịch, tuy nhiên do thói quen lâu đời, người ta vẫn nói Thanh Minh ở tháng ba. Mỗi tiết khí đều mang một cái tên với những ý nghĩa khác nhau, hai chữ Thanh Minh đã nói lên cái trong và cái sáng của tiết trời, đã xác định rõ cái tiết thứ năm này là tiết đẹp nhất trong 24 tiết, cổ nhân đã hoà nhập sự trong sáng này vào lễ tảo mộ, bên ngoài làm sạch đẹp mộ phần, bên trong làm sạch đẹp lòng người để tưởng niệm công đức tổ tiên, hai cái thể trong và sáng của tiết Thanh Minh và lần lần cả hai khái niệm Thanh Minh và Tảo Mộ cũng đã thực sự cùng nhau hoà quyện. Ngày xưa, Tết Thanh Minh có sự phân biệt rõ ràng giữa lễ và hội: Lễ là Tảo Mộ, bổn phận của con cháu là tới ngày này phải đi quét tước, sơn phết, dọn dẹp tu bổ mộ phần cho sạch đẹp ngay ngắn và sau đó dâng cúng lễ vật để tỏ lòng hiếu thảo; còn hội là Đạp Thanh, tức là nhiều người cùng giẫm lên cỏ xanh, hội này có nguồn gốc từ đời Đường để chỉ những giai nhân tài tử trong ngày Thanh Minh đã nô nức kéo nhau đi đầy đường và đạp bừa lên cỏ xanh lúc này mới mọc. Đối với hội này các cụ Nho thường nói “Xuân phân hậu thập ngũ nhật vi Thanh Minh, tục hữu Đạp Thanh hội”, câu này đã xác định sau tiết Xuân Phân mười lăm ngày là tiết Thanh Minh và theo phong tục trong tiết này có hội Đạp Thanh. Ngày nay người ta vẫn đi dập dìu trong ngày Thanh Minh, vẫn có những nam thanh nữ tú, nhưng vì đường xá trải nhựa không có cỏ mọc, không thể gọi Đạp Thanh, tuy nhiên vẫn còn ý nghĩa để người đời tưởng nhớ. Theo thông lệ từ trước đến nay, cứ sau tháng giêng là người ta đã lo đắp mộ cho những người quá cố, riêng mồ mả của người Hoa thường được xây dựng theo kiểu “hoành pú” là một loại mộ nửa đất nửa đá nhưng rất to, nên việc đắp mộ cũng rất công phu. Đa số người xưa đều tin vào phong thuỷ nên việc bố trí, sửa sang, sơn phết chung quanh ngôi mộ cũng phải đúng theo tín ngưỡng, phía trước mộ là Minh Đường phải được làm bằng phẳng và phải thấp hơn nấm mộ, nhưng phía sau là Huyền Vũ chính là chỗ dựa nên phải đắp cao hơn, từ Huyền Vũ tạo thành vòng cung ra phía trước bên tả là Thanh Long thuộc dương và bên hữu là Bạch Hổ thuộc âm, thường gọi là tay long, tay hổ, tượng trưng cho con trai con gái, vì vậy khi đắp đất phải thật căn bằng, nếu vô ý bên cao bên thấp sẽ có chuyện mích lòng giữa con cháu trai và con cháu gái của người quá cố. Về sơn bia cũng rất phức tạp, vì trong “hoành pú” thường có hai huyệt của hai ông bà hoặc có khi ba huyệt cho một ông hai bà, dù cho ai còn sống huyệt cũng phải làm sẵn cùng một lúc với người chết trước, vì vậy trên bia cũng phải ghi tên, do đó khi sơn cũng phải đặc biệt chú ý về màu sơn, đối với người Hoa thì cái họ là bất tử nên lúc nào cũng phải sơn đỏ, cái tên của người mất được sơn màu xanh cho có sự phân biệt ai còn ai mất. Trước Thanh Minh một ngày, mỗi gia đình đã chuẩn bị một bộ tam sinh, giấy ngũ sắc, nhang, đèn, giấy tiền, vàng bạc, quần áo giấy… và các loại bánh trái, thức ăn, thức uống khác tuỳ sở thích, nhưng bánh bò, bánh bao không nhưn thường đuợc sử dụng nhiều nhất; bộ tam sinh dùng để tế trong các đại lễ ngày xưa là ba con vật: bò, heo, dê; còn đối với tết Thanh Minh người ta châm chước, thay bằng heo, gà, khô mực; ngày nay tuỳ theo tập quán của mỗi địa phương và hoàn cảnh của mỗi gia đình, người ta chọn bộ tam sinh cũng khác nhau, nhưng heo thì không thể thiếu, nhà giàu thì dùng cả con heo để cúng tế và mời cả họ hàng thân tộc cùng ăn, nhà nghèo thì một miếng thịt heo luộc, một con khô mực nhỏ, hai hột vịt hoặc con cua, con tôm luộc gì đó cũng đủ. Đúng ngày Tết Thanh Minh, ngay từ sáng sớm người ta đã thức dậy, thay quần áo mới, chuẩn bị đồ ăn thức uống, đồ tế lễ…, ngày xưa thường cho vào hui ná – đây là một loại xách tay đặc biệt của người Hoa rất tiện lợi để dùng di chuyển đồ đạc giữ cho sạch sẽ không bị bụi bặm dọc đường. Nếu nhà nào dùng heo quay để cúng tế, thì con heo đó phải để nằm trên một chiếc mâm vuông bằng cây, phía trên phủ vải điều. Công việc làm ăn hôm đó tạm thời đình hoãn lại, đa số các cửa hiệu đều đóng cửa trong ngày Thanh Minh. Mọi người trong gia đình phải tự gồng gánh, hoặc dùng xe chở đồ đạc đến mộ; theo quan niệm xưa thì đây là công việc của người đàn ông, phụ nữ chỉ được tham gia phụ, còn ngày nay thì đó là việc chung của thân tộc họ hàng không phân biệt nam, nữ. Khi đến mộ, người ta phân ra, một số thì lo bày biện đồ đạc để chuẩn bị cúng tế, những người còn lại thì lo dán giấy ngũ sắc lên mộ, việc dán giấy cũng rất đặc biệt, nếu là mộ mới thì chỉ dán giấy trắng, nếu là mộ lâu năm thì dùng giấy năm màu: trắng, vàng, đen, xanh, đỏ, còn nếu trong ngôi mộ hoành pú có hai hoặc ba huyệt như đã nói trên thì về phía huyệt của người còn sống phải dán giấy đỏ. Dùng giấy năm màu ở đây là tượng trưng cho ngũ hành: kim, mộc, thủy, hoả, thổ; nay con cháu đem năm màu phủ lên mộ cũng như đem đến năm hành để xây dựng chỗ ở cho tổ tiên của mình được vĩnh hằng. Sau khi dán giấy xong mọi người cùng tề tựu phía trước bia mộ để dâng hương cúng tế, người lớn tuổi tế trước kế đến là con cháu tiếp tục tế theo thứ tự, mọi ngừơi đều mời tổ tiên của họ về chung vui trước để hưởng lộc sau phù hộ cho con cháu được thuận hoà và làm ăn phát đạt. Khi cúng tổ tiên, con cháu cũng có một phần lễ vật để cúng thổ địa được đặt phía trái góc mộ để cầu thổ địa phù hộ cho được bình an, đất đai yên ổn. Trong khi cúng tổ tiên, người chủ nhà (hoặc trưởng tộc) phải dâng trà, dâng rượu ba lần và sau cùng là đốt vàng bạc, quần áo giấy… để biểu lộ sự cung phụng trước khi mời tổ tiên yên nghỉ. Sau cùng là đồ ăn thức uống, các thứ cúng tế tổ tiên được dọn ra, mọi người quây quần ăn uống ngay trước mộ. Việc ăn uống ngay trước mộ tổ tiên cũng mang ý nghĩa đoàn kết gắn bó, cùng ăn, cùng làm, để cùng nhau xây dựng sự nghiệp. Cũng có một số trường hợp của một vài gia đình sau khi cúng bái tổ tiên, họ không ăn uống ngay trước mộ mà lại dọn về nhà tổ chức tiệc tùng ngay trước bàn thờ gia tiên. Tết Thanh Minh mang ý nghĩa sâu sắc đã nói lên được ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn” phản ảnh được cái đẹp tâm linh thật tuyệt vời của con người Việt Nam, vì vậy có một số dân tộc cũng hưởng ứng cái Tết này. Tết Thanh Minh ở Bạc Liêu cũng đã quen thuộc với người Kinh và người Khmer trong nhiều thế kỷ, nên ở đây luôn có sự cải cách đổi mới, bỏ bớt nhiều chi tiết rườm rà cho phù hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng địa phương; hiện nay người ta cũng ít chú ý đến khái niệm “Tảo Mộ” và “Đạp Thanh”, mà tết Thanh Minh lại thường được hiểu là ngày bồi đắp mồ mả và cúng kiếng để tưởng nhớ công ơn của ông bà, tổ tiên, của những người đã khuất. Đây là một lễ hội truyền thống rất tốt đẹp đã gắn liền với quá trình phát triển của xã hội qua các thời kỳ lịch sử, nhưng tết Thanh Minh càng lúc càng bị biến đổi theo đà tiến hóa của con người và xã hội, nhất là về mặt hình thức do sự du nhập của văn minh phương Tây nên đã khác xa ngày xưa. Có một vài trường hợp trong tết Thanh Minh người ta phô trương sự giàu có của mình, phô trương sự sung túc của dòng họ, khoe khoan sự báo hiếu đối với người đã khuất… làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của tết Thanh Minh; nhiều gia đình nghèo rất khổ tâm khi phải đi viếng mộ ông bà mình gần những ngôi mộ có con cháu lắm tiền nhiều của, tổ chức cúng kiếng thật rình rang; những điều này có thể là những lý do làm ảnh hưởng đến tình đoàn kết giữa láng giềng. Thiết tưởng nên có một mô hình ăn tết Thanh Minh sao cho vừa tươm tất, vừa phù hợp với kinh tế của mọi gia đình, vừa bảo tồn được tính văn hóa truyền thống và nhất là tạo được sự đòan kết giữa những người cùng phố phường, làng xóm với nhau. |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com