Tây Thiên – Chiếc nôi Phật giáo Việt
* Văn hóa Thể thao Vĩnh Phúc Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được xây dựng tại khu di tích Danh Thắng Tây Thiên là để góp phần bảo tồn và tôn vinh giá trị của Phật giáo ở Tây Thiên, nó tạo nên những tiền đề cho những công trình nghiên cứu, khảo cổ di tích tiếp theo sau này. Trong bài viết này chúng tôi mời quý vị cùng chúng tôi dở lại trang lịch sử Phật Giáo Việt I. Nguồn sử liệu: 1. Theo Jean Filliozat (Giáo sư Đại học pháp) – Trong quyển đạo Phật Việt Nam – Hoà Thượng Thích Đức nghiệp trích dịch ở sách Préence du Boud – dhisme, Asoka et Expansion Bouddhhique của Jean Filliozat trang 369 – 373, saigon, 1959, dựa chương XII sách đại sử ký – Mahavamsa – của Tích Lan,…."Ngay sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba " tại thành phố Pataliputra (Hoa Thị) – ấn Độ, trước tây lịch 300 năm, vua Asoka (A Dục) cùng với Đại lão Hoà Thượng Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) đã cử và đẩy mạnh các phái đoàn như Lai Sứ giả trên đường truyền bá Phật pháp tới các nước Viễn Đông, Đông Bộ, Địa Trung Hải, Tích Lan và toàn cõi bán đảo Đông Dương, trong đó có Miễn Điện, Thái Lan và Việt Nam. Do hai vi cao tăng Sona và Uttara truyền tới. Hầu hết cácnơi thường có dấu ấn bằng chùa tháp, cột đá hay bia đá để ghi lại công đức của vua Asoka (đạo phật Việt 3. Theo Maurice Duranr (thành viên trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp) -trong quyển Presence du Bouddhisme, trang 798, trong bài đạo phật truyền vào Việt Nam bằng hai con đường: Con đường thứ nhất bằng đường biển phía Nam, từ ấn độ và các nước có ảnh hưởng ấn độ như bờ biển vịnh Bengale, hải cảng Bom bay và Calcutta, con đường thứ 2 từ Trung Quốc truyền sang …" 4. Theo HT Thích Đức Nghiệp. – viết trong quyển "Đạo phật Việt Nam " NXB TP Hồ Chí Minh 1995, trang 28, "Biết rằng: Đồ Sơn là một địa danh chỉ cách thành phố Hải Phòng chừng 12km thì chắc chắn vào thế kỷ thứ III trước tây lịch, 2 ngài Sona và Uttara, đã tới đây thuyết pháp, và cùng nhân dân địa phương, đã xây bảo tháp Asoka …" Biết rằng khi có bình sinh, Sư Bần có giảng đạo Phật cho Chử Đồng Tử. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái, thì Chử Đồng Tử có ghé thuyền vào núi Quỳnh Viên Sơn ….vậy, ngày xưa gọi là Quỳnh Viên Sơn sư Phật Quang; thì nay gọi là Mẫu Sơn và Sư Bần …" 5. Theo Ngô Đăng Lợi – Nhà nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết trong sách Phật giáo Văn hoá và dân tộc, Hà Nội 1990, trang 12 "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê, nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì trước thể kỷ thứ ba trước tây lịch, đạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta". 6. Theo truyện Nhất Đàm Dạ Trạch: Trong Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại việc công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng thứ ba lấy Trử Đồng tử, chuyện kể Trử Đồng Tử được học đạo như sau " ….Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung và Trử Đồng Tử làm chúa, có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: ‘quý nhân hãy bỏ ra một dật vàng, năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật’ …Đồng Tử cùng thương nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài, có núi Quỳnh viên (Quỳnh vi) trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Trử Đôngd Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên Phật Quang truyền tháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe tháp; đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng, đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Trử Đồng Tử về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một cái nón vừa bảo: ‘ Các việc linh thông đều ở đó rồi" Đồng tử trở về đem đạo phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo. 7. Theo GS Lê Mạnh Thát . viết trong quyển lịch phật giáo Việt Nam, quyển I, NXB Thuận Hoá, 1999, trang 31 – "Trước đây, Claude Madrolle căn cứ vào tên thành Nê – Lê, tức là thành Bùn Đen, để giả thiết thành Nê Lê ở chính vùng Đồ Sơn của thành phố Hải Phòng. Nê Lê hiểu như nghĩa bùn đen tất nhiên không phù hợp với văn phạm chữ Hán. Bởi vì nếu hiểu Nê là Bùn và Lê là màu đen, thì thành này phải có tên là Lê Nê, chứ không phải là Nê Lê. Hơn nữa cụm từ Nê Lê trong Hán văn thường được dùng như một phiên âm của chữ naraka của tiếng Phạn. và naraka lại có nghĩa là địa ngục. Tại vùng núi Tam Đảo có ba ngọn cao nhất là Thạch Bàn, Phù Nghĩa và Thiên Thị, trong đó giữa chân ngọn Thạch Bàn tại làng Sơn Đình có ngôi chùa Tây Thiên, chùa này tương truỳên là có liên hệ với vua Hùng và có một bản ngọc phả về vua Hùng thờ tại đây, điểm lôi cuấn là chùa Tây Thiên này lại có tên nôm na là chùa Điạ Ngục, đã là chùa thì thiếu gì tên mà lại có tên là Điạ Ngục, phải chăng là do từ chữ naraka mà ra. Huyện An Định do thế có khả năng nằm tại vùng núi Tam Đảo này chăng? Muốn trả lời rứt khoát câu hỏi này, ta phải đợi một cuọc điều tra khảo cổ thực địa". 8. Theo Lưu Hân Kỳ – Viết trong cuốn Giao Châu ký "thàng Nê Lê ở phía 9. Theo Lê Đạo Nguyên – viết trong Thuỷ Kinh Chú (quyển 37, tờ 6b4-6, Bến đò Quan tắc xuất phát từ đó, song nó từ phía đông huyện đi qua huyện An Định và Trường Giang cảu Bắc Đái. trong sông có nơi vua Việt Vương đúc thuyền đồng, khi nước triều rút, người ta còn thấy dấu vết, Sông lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, người ta bảo là vua A -Dục dựng". 10. Theo Tăng Chiêu – Người đã biên tập lại Giao Châu ký từ những đoạn phiến trích dẫn rãi rác trong các tác phẩm Trung Hoa như Hậu Hán Thư, Thuỷ Kinh Chú, Tế Dân yếu thuật, Bắc đường thư sao, Nghệ văn loại tụ, Sơ học ký, Thái Bình Ngự Lãm, ….đã kết luận "Giao Châu Ký viết vào thời Nhà Tấn và Lưu Hân Kỳ là người Đông Tấn, như vậy Lưu Hân Kỳ phải sống và viết vào những năm 236-420." Qua đó chúng ta thấy cho tới những những năm 380 – 420 những người đi hái củi ở nước ta vẫn còn thấy được thành Nê Lê và tháp vua Asoka, ở huyện Định An. 11. Theo Lê Quí Đôn – (nhà sử học thế kỷ XVIII) đã mô tả về cảnh ở Tây Thiên Cổ Tự, tre xanh, thông thốt, cảnh sắc thanh nhã rộng rãi, trên đỉnh núi cao có chùa Đồng cổ, vừa lên vừa xuống mất hai ngày, từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến Hồ Sen, nước xanh biếc, trong hồ có đá lạ và thứ sen đỏ, hoa nở bốn mùa, hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên trái gọi là suối bạc, phát nguyên từ khe đấ đỉnh núi chảy xuống, trồng như tấm lụa; bên phải gọi là suối vàng, từ chùa bên phải chảy ra, chùa bên phải này vuông vắn phỏng hơn một trượng, tường nhà toàn bằng đá, hai bên cánh cửa khoá chặt lại bằng khoá sắt lớn, trên viên đá khắc chữ Triệu là "Địa Ngục Tự" không biết dựng từ đời nào, suối ở đây từ trong khe cửa chảy ra, sắc nước trông như vàng, suối Bạc và suối vàng hợp lưu ở trước hồ sen, quanh có chảy xuống rồi quanh co chảy xuống rồi hợp lưu với khe Giải Oan …" 12. Theo ngọc phả Hùng Vương – đã ghi "có lần vua Hùng Vương thứ 7 là chiêu Vương lên núi Tam Đảo cầu Tiên thì nghiễm nhiên đã thấy có chùa thờ phật." Và cũng theo sử liệu cổ còn lại thì " từ thời các vua Hùng tại Tây Thiên đã có ba ngôi chùa cổ tên là: Hoa Long Thiền Tự, Thiên Quang Thiền Tự, Thiên ân Thiền Tự …"
1. Phật giáo truyền vào nước ta từ lúc nào? – Qua ngọc phả Hùng vương chúng ta biết – thời Hùng Vương thứ 7 (Chiêu Vương) trên núi Tam Đảo đã có chùa thờ phật. – Đại Việt Sử ký Toàn thư (trang 178) ghi … Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương, được phong năm nhâm tuất, cùng thời với Đế Nghi (Trung Hoa), truyền đến cuối đời Hùng Vương, ngang với đời Doãn Vương nhà chu năm thứ 57 (258 TCN) là năm quí mão thì hết, tất cả 2622 năm (2879 -258 TCN) …. Hùng Vương cuối đời vì bỏ bê võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng Thục Vương (năm 257) …. Thục phán lên ngôi đóng đô ở Phong Khê (nay là thành cổ loa), ở ngôi được 50 năm …." Qua các dữ liệu trong và ngoài nước nêu dẫn ở trên, chúng ta đã thấy quá đủ cơ sở để chứng minh phật giáo truyền vào nước ta vào thời Hùng Vương. 2. Ai là người đầu tiên đem đạo phật truyền vào Việt Theo sách Đại Sử ký – Mahavamsa – của Tích Lan mà Gs Jean Filliozat và Edward Conze trích dẫn ở trên đã cho chúng ta biết: vào năm 325 TTL, sau khi kết tập kinh điển lẫn thứ ba, lần đầu tiên kinh sách được ghi lại trên lá bối bằng tiếng Maghadi. Sau đó vua A Dục và Đại Lão Hoà Thượng Moggaliputta – Tissa đã tích cực hoằng dương phật pháp, bằng cách cử 9 phái đoàn "như lai sứ giả" đi khắp lãnh thổ ấn độ và đến các nước bên ngoài ấn độ để hoằng dương phật giáo, trong đó đoàn thứ 8 do ngà Sona và Uttara đến Việt Nam và các nước Đông Dương, các đoàn Như Lai Sứ giả" này làm việc có chủ trương, có mục đích rõ ràng và thống nhất ở những nơi họ đến trách nhiệm các ngài là Hoằng dương phật pháp, xây chùa, dựng bia tháp để đánh dấu, ghi lại những nơi thánh tích hay đánh dấu việc làm của đoàn do vua A Dục phái đi, nhờ đó sau này các nhà khảo cổ Anh quốc đi tìm thấy những trụ đá viết do vua A Dục dựng lập ở những nơi thánh tích phật giáo ở ấn Độ, và tháp A Dục ở các nước do các đoàn hoằng pháp của vua A Dục thực hiện. Điều này trùng hợp với A Sử Giao Châu ký và Thuỷ Kinh Chú đã ghi "ở An Định có thành Nê Lê và tháp A Dục". – Theo Lịch sử PGVN (Gs Lê Mạnh Thát), NXB Thuận Hoá – 1999, quyển I, trang 35 ghi "đặc biệt khi ta nghiên cứu tư liệu lịch sử phật giáo Trung Quốc ta thấy vào khoảng hai thế kỷ thứ IV và thứ V sdl, tức là cùng thời niên đại của Lưu Hân Kỳ, nổi bật một phong trào đi tìm chùa của vua A Dục ở Trung Quốc. Thí dụ việc tìm chùa của vua A Dục ở Bành Thạnh, Thạch Lặc và Thạch Hổ, đào chùa của vua A Dục ở Lâm Chi và Đào Khản, tìm cách nghinh tượng phật của vua A Dục từ chùa Hàn Khê …vv. Cả một thời đại đi tìm chùa ở Trung Quốc như thế ắt không thể nào không ảnh hưởng đến việc tìm chùa vua A Dục ở nước ta. Qua các tư liệu đã trích dẫn ở trên, chúngta thâý có sự nhất trí giữa các nhà viết sử (Thích Đức Nghiệp, Lệ Đạo Nguyên) và các nhà nghiên cứu (Claude madrolle, Ngô Đặng Lợi) về việc có thành Nê Lê và tháp A Dục do các đoàn hoằng pháp của vua A Dục phái đến nước ta dựng lập. Do đó dựa vào sách Đại Sứ ký – Mahavamse- của Tích Lan và sách giao châu ký của Lưu Hân Kỳghi lại "thành Nê Lê ở phía nam huyện Định An, cách sông bảy rặm, tháp và giảng đường do vua A Dục dựng vẫn còn, những người đốn hái củi gọi là kim tượng", và trách nhiệm do 9 đoàn do vua A Dục và Đại Lão Hoà Thượng Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) cử đi hoằng pháp, chúng ta có thể nói: Đoàn do Ngai Sona và Uttara là người đầu tiên đem phật giáo vào nước Văn Lang thời Hùng Vương. 3. Những nhà truyền giáo đạo phật đầu tiên đến nơi nào trên đất nước ta?
Dịch: "Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời . Dục Vương đi, vua sau cũng đổ rồi! …" Những người dựa vào hai câu thơ này, cho rằng "trên núi Thái Sơn có bảo tháp A Dục vương dựng nên vào khoảng 300 năm trước tây lịch; sau khi tháp này tàn phế, tiếp đến tháp này tán phế, tiếp đến tháp Tường Long do vua Lý Thánh Tông xây trên nền tháp cũ " … Chúng ta thấy ý kiến này chưa ổn: "Vùng đồ sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê …" (theo Đặng Ngô Lợi)- Đồ Sơn là vùng vùng bãi biển có núi sao lại Chính là thành Nê Lê được.
– Từ đó giả thuyết cho rằng Đồ Sơn là thành Nê Lê và tháp Tường Long chính là tháp A Dục không hợp lý.
Ông cụ chùa Hang còn nói với HT Thích Đức Nghiệp " …xưa gọi là Quỳnh Viên và sư phật quang, thì ngày nay gọi là mẫu sơn và Sư Bần" nhận xét này thiếu cơ sở. Theo Gs Lê Mạnh Thát viết trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam trang 14 – 15 ghi: "…đọc Minh lương cẩm tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta trong khi tiến quân chinh phạt Chiên thành vào năm 1470, thì ta gặp bài thơ thứ 7 nói về Nam Giới Môn Lữ Thứ trong đó có 2 câu thơ. "Di miếu nan truyền kim Vũ Mục, Danh sơn do thuyết cổ quỳnh viên ". Dịch : Di miếu còn truyền nay vũ mục. Danh sơn vẫn nhắc cổ quỳnh Viên. Vũ mục đây tức chỉ tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi, năm Thái Hoà thứ 2 (1444) đi đánh chiêm thành, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, khi trở về với cửa biển Nam Giới thì mất. Dân thương nhớ lập đền thờ tại cửa biển này. Cửa biển này còn được gọi nôm na là cửa Sót. Còn núi Quỳnh Viên thì nằm ở phía nam cửa biển này là từ thời Lê Thánh Tông đã được xác nhận là một Danh Sơn, một ngọn núi kia, nó dứt khoát không phải là ngọn núi thần thoại, càng không phải là một ngọn núi không có địa điểm cụ thể trên đất nước ta..
Do đó, trong khi chờ đợi sự phát hiện mới về khảo cổ học của Tây Thiên, theo chúng tôi, qua sử liệu và lịch sử phát triển của dân tộc, chúng ta có thể nói – Tây thiên là chiếc nôi Phật giáo của Việt III. Tổng kết. – Qua các sử liệu mà chúng ta nêu dẫn trên, đã cho phép chúng ta dự đoán khá chính xác về: – Đạo Phật truyền bá vào đất nước ta từ thời Hùng Vương. – Đoàn hoằng pháp đầu tiên là ngài Sona và Uttara do vua A Dục và đại lão Hoà Thượng Moggaliputta Tissa phái đi. – Tây Thiên là chiếc nôi của phật giáo Việt Trong khi chờ đợi các nhà khảo cổ khai quật tìm những chứng tích về thành Nê Lê và tháp A Dục, để xác minh và làm sáng tỏ những vấn đề Phật giáo ở Tây Thiên? chúng tôi thấy những nhận định trên đây của Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ tạo điều kiện cho những công trình nghiên cứu, khảo s¸t sau này … |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com