TĂNG NI PHẬT TỬ * PGS.TS. Trần Hồng Liên Hơn hai ngàn năm kể từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật đã luôn thể hiện được sức sống mãnh liệt, thể hiện sự hòa nhập vào lòng quốc gia mà đạo Phật đã đến. Có được nhiều đó chính là từ tùy thuận của Phật giáo và đặt biệt là những cốt lõi trong giáo lý, kinh sách “Phật pháp bất ly thế gian giác” (giáo pháp Phật không thể xa rời cuộc sống của thế gian mà phát triển được). Trong từng giai đoạn của tổ chức xã hội mỗi thời kỳ mà tinh thần nhập thế này được thể hiện với nhiều dạng khác nhau. 1. Từ tinh thần tích cực “đem đạo vào đời” của Phật giáo thời đại Lý – Trần đã đưa đến những thiền sư nổi tiếng, trở thành tam tổ của phái thiền hoàn toàn mang đặc trưng Việt Sách sử của triều Nguyễn đã chẳng từng ghi lại sự kiện những nhà sư ở vùng đất Gia Định trong buổi đầu khai hoang, không phải đi ẩn vào núi tu hành, mà là đã cùng người dân khai phá, chống và dẹp thú dữ… như hình ảnh tăng sĩ tên Ân và đồ đệ đã dũng cảm giết cọp cứu dân gần chợ Tân Kiểng, hoặc hình ảnh nhà sư Viên Ngộ ở Cần Giuộc, khai phá con đường làng cho dân chúng qua lại đỡ vất vả vì bùn lầy, hùm beo… 1 Rồi những ruộng đất bạc ngàn, có bàn tay sản xuất của tăng sĩ như hàng trăm mẫu ruộng tại chùa Giác Lâm, như nông trường Thiên Mụ, vốn là trường Biệt nạp ở chùa Thiên Mụ (Cần Giuộc)… đã góp phần thiết thực vào việc tự túc lương thực và gia tăng sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế ở những giai đoạn đầu tại vùng đất mới. 2. Chiến tranh thế giới lần hai bùng nổ vào năm 1939, đến năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm đóng Việt Những năm Pháp xâm lược Quần chúng phật tử hết lòng tham gia việc nước, hăng hái gia nhập các tổ chức cứu quốc: Thanh niên Tiền phong, Thiếu niên, Tiền phong, Phụ lão cứu quốc, Phật giáo cứu quốc… Nhiều chư tăng trong thành phố đã tham gia Mặt trận Việt Minh, nhiều chùa như chùa Long An, Giác Lâm, Giác Viên, Sùng Đức, Long Vân, Giác Hoàng hưởng ứng… Chùa Linh Thứu (Tiền Giang) là trạm liên lạc giữa Xứ ủy Mỹ Tho. Sư cụ Thái Không, trụ trì chùa Phật học Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) đã âm thầm hoạt động và hô hào tăng sinh trường hãy: “cởi áo cà sa khoác chiến bào Giã từ thiền viện lướt binh đao Câu kinh tiếng kệ chờ khi khác Cứu quốc thương dân dễ đợi nào” Tại Sài Gòn, tháng 8.1945, được sự hướng dẫn của Mặt trận Việt Minh, Việt Nam Phật giáo Tổng hội do các Hòa thượng Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh), Hồng Từ ( chùa Giác Viên), Hồng Hưng (chùa Giác Lâm)… đứng ra huy động tăng ni, phật tử gần 400 người về khai mạc mít – tinh tại chùa Trường Thạnh, diễu hành với khẩu hiệu: “Bảo Đại phải thoái vị, Nguyễn Văn Sâm phải từ chức, Việt Nam độc lập muôn năm, hoan nghinh Mặt trận Việt Minh, chính quyền phải về tay Việt Minh”. Sau khi thực dân Pháp tái chiếm nước ta, do bị tác động từ nhiều phái, hoạt động của các tổ chức Phật giáo phân hóa thành các xu hướng: xu hướng thỏa hiệp với thực dân Pháp, xu hướng cầu an bảo thủ, xu hướng yêu nước hòa hình thành Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, hoạt động mạnh mẽ trong và sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Lúc đầu tham gia lãnh đạo Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ các vị: Minh Nguyệt, Huệ Quang, Bửu Đăng, Pháp Dõng, Thành Lệ, Thành Nghiêm, Trí Thiền, Thiện Chiếu, Thiện Hào… Năm 1946, sư Minh Nguyệt cùng các tu sĩ, cư sĩ ra chiến khu Đồng Tháp Mười lập Ban Chấp hành Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, đặt văn phòng Trung ương tại chùa Ô Môi, xã Mỹ Quý, Đồng Tháp Mười. Phật giáo cứu quốc Nam Bộ được tổ chức tại Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn, Bà Rịa, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Long Xuyên, Bạc Liêu, Rạch Giá… Hội đã xuất bản báo tinh tấn, do nhà sư Minh Nguyệt làm chủ nhiệm, Lê Văn Đông làm chủ bút. Năm 1949, với tư cách Ban Chấp hành Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, thiền sư Minh Nguyệt từ Mỹ Tho về Gia Định lập lại Tỉnh hội Phật giáo Cứu quốc Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn, cử thiền sư Bửu Đăng làm hội trưởng, Pháp Dõng làm hội phó, Thiện Hào làm ủy viên, chọn chùa Tường Quang ở xã An Phú Đông làm trụ sử. Thực dân Pháp đánh phá ác liệt căn cứ cách mạng An Phú Đông, trụ sở của Tỉnh hội phải dời về chùa Thiên Phước (cầu Kho, Sài Gòn). Cuối năm 1950, thiền sư Thiện Hào về Mỹ Tho hoạt động Phật sự. Năm 1951, sư Thiện Hòa được tăng ni, phật tử Mỹ Tho bầu làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Mỹ Tho. Năm 1952, Hội Phật giáo Cứu Quốc Nam Bộ lúc này đã giải về, với tư cách Ủy viên Ủy ban Mặt trận Liên Việt tỉnh Mỹ Tho, thiền sư Minh Nguyệt giới thiệu thiền sư Thiện Hào vào chiến khu Đồng Tháp Mười dự hội nghị dân tộc và tôn giáo, sau đó nhà sư ở lại căn cứ để tìm hiểu đường lối cách mạng miền Nam. Năm 1949, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo Phật giáo Cứu Quốc Nam Bộ tuyên bố tự giải tán, chỉ để lại đại diện Phật giáo trong các cấp Mặt trận Liên Việt. Năm 1952 Phật giáo Cứu quốc chuyển hướng hoạt động công khai bằng Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam, Tăng trưởng là thiền sư Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh). Văn phòng đặt tại chùa Trường Thạnh. Năm 1953, bộ phận Trí vận hoạt động hợp pháp bị địch phát hiện, các đồng chí Thanh Đạm, Lê Văn Đồng, Lê Hoàng Minh bị bắt, nhưng tổ chức Lục Hòa Tăng vẫn được giữ vững thế hợp pháp. Ngôi chùa Hộ Linh (Cần Thơ) đã hiến một đại hồng chung cho Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ để đúc súng đạn, chuẩn bị kháng chiến. Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, chùa đã bị Pháp đốt. Năm 1949, Hòa thượng Pháp Thân trở về xây dựng lại chùa, biến nơi đây thành đầu mối giao lưu của Hội Phật giáo Cứu quốc các tỉnh Sóc Trăng, Mỹ Tho, Vĩnh Long… Chùa Long thạnh, điểm địa cầu của mặt trận Tây Nam Phú Lâm – Bình Chánh. Là cơ sở chỉ huy, nơi nuôi chứa cán bộ, ngày luyện tập, đêm chiến đấu. Hòa thượng Bửu Ý, trụ trì chùa, đã cùng chư tăng ủng hộ tài chính, lương thực cho số cán bộ tại đây. Để tránh trở ngại cho kháng chiến, khi Pháp đến chiếm chùa làm đồn bót, chư Tăng chùa Long Thạnh hưởng ứng chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”. Đã cùng nhau đốt phá phần chánh điện của ngôi chùa, chỉ thu xếp giữ lại một gian để thờ phụng. Trong kháng chiến chống Pháp, khi các tổ chức Phật giáo đã trở thành những lực lượng xã hội đáng kể và gây ảnh hưởng trực tiếp với thời cuộc, giới phật tử yêu nước tìm thấy con đường có thể phục vụ cho nền độc lập của Tổ quốc là tham gia kháng chiến. “Những phật tử tham gia kháng chiến, ở chiến khu hay tại nội thành, bạo động hay bất bạo động đều chứng minh một cách hùng hồn lòng yêu nước của họ. Các tăng sĩ tham gia chiến đấu trong hàng ngủ chiến đã có trên bốn trăm tăng sĩ anh dũng hy sinh trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1045” 2. 3. Sau năm 1945, cuộc kháng chiến chống xâm lược của lực lượng Phật giáo yêu nước bước vào một trang sử mới. Giới tu sĩ và tín đồ Phật giáo miền Nam sau năm 1954 có số lượng tương đối đông, đại đa số xuất thân từ thành phần nông dân và nói chung có tinh thần dân tộc, yêu nước, trong đó có nhiều nhà sư đã tham gia Mặt trận Việt Minh, là lực lượng nòng cốt cho đồng bào phật tử tham gia đấu tranh trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hiệp định Genève được ký kết, những nhà sư tham gia kháng chiến chuyển sang hoạt động hợp pháp. Tại sài gòn năm 1955, nhà sư Huệ Quang được bầu làm Phó Chủ tịch Phong trào bảo vệ hòa bình. Phong trào vừa ra đời đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, các nhà lãnh đạo phong trào bị chúng bắt giam. Trong chế độ Ngô Đình Diệm, Phật giáo miền Từ năm 1957 – 1959, địch tăng cường khủng bố những gia đình có người tham gia cách mạng, truy lùng những người kháng chiến cũ, các cơ sở nuôi chứa cách mạng, bức bach đồng bào Khmơr, nhằm tách đồng bào Khmơr khỏi cách mạng, chúng dùng chính sách mỵ dân lôi kéo đồng bào Khmơr chống Cộng, nhưng với chính sách dân tộc, tôn giáo bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng qua Cương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của sư sãi và đồng bào phậtạ tử Khmơr một lòng hướng về cách mạng, hăng hái tham gia chống Mỹ, cứu nước cùng với người Kinh và các dân tộc anh em. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Thời chống Mỹ cứu nước, mức độ và số lượng tu sĩ hoạt động cách mạng càng gia tăng. Nếu như ở giai đoạn trước chưa thấy xuất hiện những người nữ (tu sĩ và cư sĩ nữ) thì trong cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu và đế quốc xâm lược Mỹ có bóng dáng của ni sư Huỳnh Liên cùng các chư ni trong thành phố. Các cuộc biểu tình, tuyệt thực đã làm ngòi nổ lớn kéo theo các cuộc xuống đường của nhiều tầng lớp cư dân ở Sài Gòn. Tịnh xá Ngọc Phương trở thành cơ sở đóng góp tài lực lớn của nhiều đơn vị cách mạng. Việc tự thiêu của bồ tát Thích Quảng Đức tại trung tâm đầu não của chế độ Mỹ – Ngụy vì độc lập dân tộc và cho đạo pháp đã trở thành ngòi pháo mạnh mẽ bùng nỗ các cuộc đấu tranh dữ dội hơn của tuổi trẻ Sài Gòn và cái chết của người nữ Phật tử Quách Thị Trang, Nhất Chi Mai mãi mãi vẫn còn là hình ảnh hào hùng của tuổi trẻ Sài Gòn… đã gây tiếng vang lớn đến các nước Á Phi, đã khiến Liên hiệp quốc phải cử phái đoàn sang Việt Nam điều tra về tội các của Diệm – Nhu. Phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo chống chế độ Mỹ – Diệm từng bước đi vào quỹ đạo của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tạo ra bước ngoặt đưa đồng bào tu sĩ và phật tử Nam Bộ tiếp tục phát huy truyền thống gắn bó với dân tộc, hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Tại Sài Gòn, trung tâm đầu não của chính quyền Ngụy, Phật giáo đã phát triển phong trào chống chế độ Mỹ – Ngụy bằng nhiều hình thức đa dạng và phong phú hơn. Nhiều chùa đã trở thành nơi hội họp, có hầm bí mật nuôi cán bộ, tranh thủ việc học tập kinh điển để lồng các bài chính trị thường thức, trao đổi kinh nghiệm công tác lãnh đạo đấu tranh chống Mỹ – Ngụy. Tại các căn cứ địa phương, hội nghị cũng được khai mở phổ biến nội dung, yêu cầu, mục đích các chiến dịch và các Chỉ thị của Trung ương Cục cho cán bộ đầu mối gồm các Thượng tọa, đại đức và một số phật tử cốt cán. Sau cuộc đấu tranh chống Mỹ – Diệm đàn áp Phật giáo năm 1963, tổ chức đấu tranh của Phật giáo chống chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn ngày càng phát triển. Một số tăng sĩ được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Khi Hiệp định Paris được ký kết, đồng bào tu sĩ, phật tử cùng với các tầng lớp nhân dân ở miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh rộng rãi, mạnh mẽ đòi Mỹ – Ngụy nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, chống càn quét lấn chiếm vùng giải phóng. Ở Sài Gòn,. Tăng ni phật tử lập ra Mặt trận nhân dân cứu đói. Mặt trận do nhà sư Hiển Pháp là chủ tịch. Ni sư Huỳnh Liên và một số tu sĩ khác làm phó chủ tịch. Cũng trong thời gian này, ni giới Khấc sĩ do ni sư Huỳnh Liên lãnh đạo đã cùng với phụ nữ, nhất là với chị em tiểu thương ở các chợ phát động phong trào phụ nữ đòi quyền sống, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ, đòi cải thiện đời sống lao tù và thả tù chính trị. Các sư ni đã vận động quyên góp ủng hộ thuốc men, quần áo, thực phẩm…; tổ chức đưa đến nhà tù Tân Hiệp, Chí Hòa và các nhà tù khác của Mỹ – Ngụy để thăm nuôi và trao quà của đồng bào cho anh chị em tù chính trị. Bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng đầy dũng cảm, các nữ tu sĩ đã cùng các tầng lớp nhân dân Sài Gòn xuống đường đưa yêu sách, kết hợp với báo chí, tổ chức hội thảo, mít tinh, đấu tranh đòi Mỹ rút về nước, đòi Thiệu từ chức, đòi hòa bình thống nhất đất nước, đòi tự do báo chí, tự do tín ngưỡng… Cao trào đấu tranh này kéo dài liên tục từ 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tóm lại, có thể thấy rằng truyền thống yêu nước, thương dân, của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện mạnh mẽ, rõ ràng và cụ thể hơn ở vùng đất Nam Bộ vùng đất cuối vùng của tổ quốc, nơi đối đầu trực tiếp với các thế lực hùng mạnh nhất, để cư dân Nam Bộ, trong đó có các tu sĩ Phật giáo, có dịp tỏ rõ bản lĩnh của mình, lý tưởng sống của mình. Truyền thống “Hộ quốc, an dân” cùng với phương châm hành động cho “đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội” chính là sự thể hiện cuộc nhập thế trọn vẹn vào lòng dân tộc của Phật giáo Việt Tài liệu tham khảo: 1. Đại Nam Nhất Thống Chí – tập Thượng, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Nhà Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1973. 2. Giác Ngộ 1983. Lược ghi bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Linh, Số 162 – 163 ngày 1 -3 – 1983. 3. Nguyễn Lang.2000, Việt 4. Trần Hồng Liên 2004 Ba trăm năm Phật giáo Tp. HCM, trong sách: Góp phần tìm hiểu Phật giáo |
Cập nhật ( 10/05/2010 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com