SƠ KHẢO TÔNG THIÊN THAI * Tuệ Hạnh Đã có rất nhiều sách vở và bài viết về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa, hoặc có tánh cách học giả nghiên cứu hoặc là các bài thuyết giảng phổ cập. Về hệ luận Thiên Thai, ta có thể đọc thấy qua bài của Hòa thượng Thích Trí Quảng, đăng trong tập Phật học cơ bản khóa 4; và về tiểu sử tổ Trí Khải trong quyển “Tông Thiên Thai Pháp Hoa; tổ tổ tương truyền” do tỳ kheo Thích Tắc Phi biên soạn, ấn hành năm 2002, các trang 70-80. Tông Thiên Thai dùng kinh Pháp Hoa làm tông chỉ; về ý nghĩa kinh, đọc : “Kinh Pháp Hoa giảng giải” của Thiền sư Hòa thượng Thích Thanh Từ. Bài này chỉ có mục đích đi tìm các yếu tố quan trọng đưa đến sự thành lập tông Thiên Thai (còn gọi là tông Pháp Hoa) cũng như căn bản triết lý của tông này cùng là vai trò và địa vị của đại sư Trí Khải trong lịch sử Phật giáo, không phải chỉ riêng của Trung hoa mà là trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. I. Bối cảnh lịch sử và sinh hoạt văn hóa tại Trung hoa, thế kỷ I-VI: Trước khi đi vào chính đề, ta cần có một khái niệm về bối cảnh lịch sử và địa chánh cũng như sinh hoạt văn hóa của Trung hoa từ đầu kỷ nguyên đến thế kỷ 6, tức là vào khoảng sinh thời của đại sư Trí Khải. Đại sư sanh năm 538 trong thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Phật giáo truyền sang Trung hoa vào đầu kỷ nguyên tây lịch do các tăng sĩ Ấn độ thuộc nhiều vùng như Khương cư, Nguyệt chi, Quy tư v.v. hoằng hóa; các ngài đến bằng đường bộ xuyên dãi Thông lĩnh du nhập miền bắc hay bằng thuyền đáp bến Quảng châu miền nam (1). Trước khi đến Trung hoa, các ngài đã nổi danh, hay là khi đến rồi thì tạo danh vị cho mình bằng phương cách thuyết giảng hoặc dịch thuật các kinh để được các phiên vương biết đến mà thỉnh mời và hộ trợ. Ngày nay hầu như tất cả đều đồng ý với truyền thuyết vua Hán Minh đế nằm mộng thấy người vàng (đức Phật), cho người sang Thiên trúc thỉnh được hai vị Ca diếp Ma đằng và Trúc Pháp Lan cùng kinh Tứ thập nhị chương về an trí tại Bạch Mã tự, vào năm 67 stl. Tuy nhiên, học giả Hồ Thích giả thiết rằng Phật giáo truyền vào Trung hoa sớm hơn niên đại này nhiều thế kỷ. Giả thiết của ông đang được các học giả lưu tâm, do ông lý luận rằng: 1. Thời A Dục vương (Ashoka, tại vị 273-231 ttl) nhà vua háo chiến này sau khi quy Phật rồi đã tận tâm xiển dương Phật Pháp, một trong những công đức của ông là gửi nhiều phái đoàn tăng lữ đi khắp nơi để hoằng hoá, phương Nam đến Tích Lan, phương Tây đến tận Hy Lạp, Do Thái, Nga la tư, v.v. thì không lý nào mà không có một nếu không là nhiều tăng đoàn đến được phương Đông Bắc là Trung hoa, ngay trong thời A Dục vương; 2. Đã có những chứng tích là vào năm 245 ttl, dưới triều A Dục, Phật giáo đã có mặt tại các nước Đông nam Á, gọi là vùng đất vàng (Suvarnabhùmi, nay được xem là quần đảo Java) (2), trong đó có Việt nam với truyền thuyết nay cần được xác quyết là lịch sử việc Chử Đồng tử học đạo với nhà sư Phật Quang thế kỷ 3 ttl là có thật (3). Tuy nhiên, dầu Phật Pháp du nhập Trung hoa vào đời Hán Minh đế hay sớm hơn nữa, lịch sử cho thấy rằng mãi đến thế kỷ 3 sau tây lịch, có nghĩa là 2 hay 3 trăm năm dài đăng đẳng, Phật Pháp vẫn chưa phát triển rộng rãi tại đất nước trung tâm của vũ trụ này (Trung quốc). Từ khi Hán Minh nằm mộng trước năm 67 stl cho đến một trăm năm sau, An Thế Cao mới là vị tăng sĩ đầu tiên được ghi trong lịch sử (4), từ An tức đến Lạc dương, vào năm 166 stl và hoạt động tại đây một thời gian trước khi xuống vùng Quảng châu. Kế đến là Khương Tăng Hội, sơ Tổ Phật giáo Việt nam và sơ Tổ Thiền tông Việt Các học giả hiện đại nghiên cứu về thời đại này đã phân tách lý do Phật giáo Ấn độ đã không thể phát triển mau chóng tại Trung hoa vào những thế kỷ đầu vì nhiều lý do như sau: 1. Phương diện ngôn ngữ: (6) Tiến trình dịch kinh từ chữ Phạn sang Hán văn là một tiến trình dài hàng trăm năm và gặp rất nhiều trở ngại thử thách về mặt ngôn ngữ. Từ Phạn ngữ hay Pàli, đa âm, có văn phạm và ngữ pháp rành mạch, phát âm trầm bổng dài ngắn rõ rệt, chuyển sang Hán ngữ độc âm, bình thanh, tượng hình, không có văn phạm quy ước, là một vấn đề khó khăn hàng đầu mà các nhà hoằng giáo và phiên dịch kinh điển phải giải quyết. Mãi cho đến thời Cưu-ma La-thập (Kumàrajìva, 344-413) (7), một trong 3 nhà phiên dịch lớn của văn hóa Phật giáo Trung hoa, Phật Pháp mới có thể được xem như đã đặt được nền móng làm cơ sở cho những phát triển lớn mạnh về sau. Đương thời, ngay chính ngài La-thập, cũng phải đối diện với vấn đề: nên dịch ý hay dịch sát nghĩa. Nếu dịch ý có thể bỏ mất phần uyển chuyển trong văn pháp của kinh Phạn; còn dịch sát nghĩa thì Hoa văn bấy giờ không đủ từ ngữ cao thâm và nhiều ý nghĩa của Phạn ngữ. Cuối cùng, chính Cưu-ma La-thập cũng phải than thở: “Tiến trình dịch kinh từ Phạn ra Hán cũng giống như là mình nhai cơm cho nhuần nhuyễn xong rồi để cho người khác nuốt vậy (8).” 2. Phương diện tư tưởng Bấy giờ triết lý Trung hoa không có những khái niệm tương đương với Phật học, thí dụ điển hình là thuật ngữ sunyatà, mà cho đến ngày nay, Tây phương cũng phải điên đầu; trước tiên được dịch là nihilism, sau đó void, đến nothingness, rồi emptiness, cuối cùng là transparency, vẫn không truyền đạt được đầy đủ nghĩa của sunyatà; cho nên trong các tự điển Anh-Mỹ tầm cở hiện nay đã thêm được từ này trong ngôn ngữ của họ. Khi phải dịch sunyatà ra Hán ngữ, các nhà phiên dịch đầu tiên đã phải mượn từ ‘ vô ‘ theo nghĩa hư vô của Đạo giáo (9). Như phẩm XXIV, kệ 18 của Trung luận, La-thập dịch là: " Chúng nhân duyên sinh pháp, Ngã thuyết tức thị vô…" (theo Đại Tạng Taishò q.30, tr. 33b dòng 11), về sau mới đổi lại là không (Ngã thuyết tức thị không). Vô ở đây là đối tác của hữu. Thời bấy giờ Đạo giáo đang hưng thịnh, các cuộc huyền đàm của nhóm trí giả huyền học là môi trường thích ứng cho Phật học phát triển, nên các nhà phiên dịch hay trước tác đã không ngần ngại xử dụng rất nhiều từ ngữ tương đương của Đạo giáo để giải thuyết tư tưởng Phật học, điển hình là từ sunyatà nêu trên. Phương thức xử dụng đối giải này được gọi là "cách nghĩa" (matching terms). Tăng Triệu (374-414), một trong tứ kiệt đệ tử của La-thập, thường xử dụng từ ngữ Đạo giáo để cách nghĩa tư tưởng Tánh Không trong các tiểu luận mà về sau được lập thành là Triệu luận (10), tác phẩm đã đưa ngài lên làm sáng tổ của Tam luận tông Trung hoa. Ngoài ra, những ý niệm như luân hồi, nghiệp (samsara), giải thoát (moksa), giác ngộ (nirvana), báo ứng, v.v. đều rất xa lạ với Trung hoa thời bấy giờ. Nhất là vô ngã (anatta), Trung hoa tin có hồn phách, không làm sao vô ngã; bởi vì, họ nạn vấn, nếu vô ngã thì sao lại có việc thọ nhận nghiệp báo? Có thể nói, trong những thế kỷ 3-6 kinh điển là tụ điểm của các sinh hoạt Phật giáo tại Trung hoa (phiên dịch, sớ giải v.v.), tuy nhiên vấn đề thông hiểu triết thuyết trong các kinh vẫn chưa thoát ly khỏi tư tưởng Đạo giáo. 3. Phương diện văn hóa và chánh trị. Bấy giờ Khổng Nho chủ trương nhập thế đóng góp vào xã hội, đã có hệ thống tổ chức tam cang ngũ thường, với các bộ ngũ kinh, tứ thư, khuyến khích sanh sản con cái để nối dõi tông đường, rạng rở gia môn. Phật giáo lại chủ trương xuất thế, tức phá vở tổ chức trật tự của xã hội Khổng Nho; xuất gia đi tu giữ giới thì không sanh con, quả là bất hiếu; người xuất gia không bái lạy vua quan, đi ngược với tôn ti luật lệ; đi tu không sản xuất là ăn bám xã hội, v.v. Các nhà nghiên cứu đều đồng chung quan điểm rằng, dân tộc Ấn độ với nguồi gốc Aryan, rất giống với Tây phương trong mọi phương diện hơn là với Trung hoa. 4. Phương diện tín ngưỡng. Người dân Trung hoa tin tưởng có một vị Ngọc hoàng Thượng đế ngự trị trên Trời, nhìn xuống cõi trần và lo cho dân gian (dĩ nhiên là dân Tàu), phán định lành dữ; hệ thống triều đình của ngài giống như triều đình cõi trần thế, bởi vì chính ngài gửi con ngài (thiên tử) xuống trần trị vì thiên hạ nên hoàng đế thì có được thiên mạng. Phật Pháp lại không nói gì đến Ngọc hoàng Thượng đế hay các thần thánh mười phương tám hướng, chỉ dạy tu hành tự mình cứu khổ, không khẩn cầu các vị "khuất mặt khuất mày" là điều mà dân gian không thể nào chấp nhận được. Đó là những trở lực lớn mà Phật giáo Ấn độ khi truyền sang Trung hoa phải trực diện đối giải. Cho nên về sau, phải khoảng từ thế kỷ 6 về sau, sau khi Phật giáo đã phát triển vững mạnh tại Trung hoa, tạo thành một hội nhập tam giáo:Phật, Khổng, Đạo, ba lực lượng tín ngưỡng và sinh hoạt của trọn nền văn hóa Trung hoa, thì ngay cả Tây phương bây giờ cũng phải kinh dị tán thán: "Nếu Phật giáo đã có thể phát triển và hội nhập tại Trung hoa, thì chắc chắn có thể phát triển bất kỳ nơi nào trên thế gian này (11)". Họ phải tán thán bởi vì họ đã đích thân chứng kiến lịch sử phát triển cuồn cuộn không ngừng của Phật Pháp tại Tây phương trong vòng chỉ hơn một thế kỷ qua. Tóm lược, phải trãi qua một thời gian dài gần 6-7 thế kỷ, từ thời du nhập bị lãng quên (3 thế kỷ đầu) đến thời phát triễn (tk 3-6) cây cổ thụ Phật Pháp mới có thể đâm chồi nở hoa trên mãnh đất văn hóa Trung hoa. Và trong thời phát triển này, các sinh hoạt có tánh cách Phật giáo phần lớn quy tụ chung quanh những bộ kinh điển, hoặc dịch thuật, hoặc viết sớ giải, hoặc đàm luận có tánh cách trí thức, thượng lưu, trừu tượng,v.v. có không khí huyền đàm hay danh giáo, thường được giới vua chúa hay quyền quý bảo trợ. Tiến trình dịch thuật đòi hỏi rất nhiều thời gian và nhiều nổ lực của nhiều người, như trường hợp La-thập; ngài đọc bản Phạn văn, một hay nhiều đệ tử lớn diễn dịch ra Hán văn, một người giỏi Hán văn ghi chép lại thành câu đủ nghĩa (12). Một tiến trình nhiều đòi hỏi như thế đưa đến một sự kiện kỳ thú là khi kinh Đại bát niết bàn (Mahàparinirvàna sùtra) mới vừa được dịch phần đầu, đại sư Đạo Sanh, đứng đầu tứ kiệt, đã có viễn kiến cho rằng hạng nhất xiển đề ca (icchantikas), bị xem là hạ tiện không thể có khả năng giác ngộ, cũng có Phật tánh. Đề xướng táo bạo và độc đáo này đã khiến Đạo Sanh bị trục xuất khỏi đạo tràng Kiến Khương vào năm 428. Đạo Sanh bèn lui về Lô sơn, dọc đường trong khi nghỉ ngơi, đại sư xếp đá lại thành một đống, ngồi giảng ý nghĩa Phật tánh tiềm tàng trong mỗi sanh thể; đá cũng gật đầu (13). Phải đợi đến năm 431, khi Dharmaksema hoàn tất phần chót kinh Đại bát niết bàn, Đạo Sanh mới được tán thán là đúng, có tuệ giác hơn người. Các bộ kinh lớn lần lượt xuất hiện. Năm 179, văn học Bát Nhã (Prajnaparamita) như kinh Kim Cương, Bát nhã Tâm kinh, truyền vào Ttung hoa. Chi lâu Ca sấm (Lokakshema) dịch Đạo hành Bát nhã năm 181 (Astasàhasrikà-prajnàpàramita-sùtra), sau đó dịch Ban châu tam muội kinh (Pratyutpanna-samàdhi-sùtra). Đại Bát nhã kinh do Pháp Hộ (Dharmaraksha) dịch năm 286, sau đó Moksala (Vô cha la) trùng dịch năm 291. Trúc Pháp Hộ cũng tiếp dịch kinh Pháp Hoa do Chi lâu Ca sấm bỏ dở; sau này Cưu ma La Thập lại trùng dịch lần nữa vào năm 406 và được xử dụng đến ngày nay. Chi Khiêm, cư sĩ học giả thế kỷ 3 đã dịch kinh Duy Ma Cật (Vimalakìrtinirdesa sùtra), mà sau này cũng lại được La-Thập trùng dịch năm 406. Kinh Niết Bàn (Mahàparinirvàna-sùtra), khiến Đạo Sanh (kh. 360-434) nổi danh do chủ trương Phật tánh phổ quát, và bị trục xuất khỏi đạo tràng Kiến Nghiệp vào năm 428, trước được Pháp Hiển dịch năm 418 cùng với Giác Hộ (Buddhabhadra) nhưng bỏ dở cho đến khi Dharmaksema hoàn tất năm 431. v.v. Số lượng kinh điển được phiên dịch bấy giờ đã đủ nhiều đến nổi đại sư Đạo An (312-385) mới đề xướng việc tổng họp các kinh điển lại, liệt kê những bản đã được dịch cho tiện tham khảo, nhưng đề xướng này bị bỏ qua; ngay cả quyển mục lục đầu tiên do Đạo An tập thành cũng bị thất tán. Mãi cho đến đời đại sư Trí Khải ở cuối thế kỷ 6, tình trạng kinh điển bằng Hán văn mới phong phú đến nổi phải có những mục lục xuất hiện: 1) Xuất tam tạng ký tập (Taisho 55, 2145: 1-114) (14) do Tăng Hựu tập thành khoảng 515, quyển mục lục còn hiện hành sớm nhất, đúng đắn và đáng tin cậy nhất. Trong quyển này, Tăng Hựu có nhắc đến một mục lục do ngài Đạo An tập thành năm 374, trong đó Đạo An liệt kê 26 nghi kinh (ngờ không phải do chính Phật thuyết), 143 bản thất dịch (không tên dịch giả) và 175 tư liệu lạ kỳ (dị kinh). Đại sư Tăng Hựu cũng ghi thêm 24 bản mà chính ngài cho là ngụy kinh và 30 bản do các vị khác gọi là ngụy kinh. 2) Chúng kinh mục lục (Taisho 55, 2146: 115-149) do vua Tùy sắc lịnh tập thành năm 589. Bộ mục lục này kể như đầy đủ nhất về các kinh điển lưu hành đương thời nhưng không đáng tin cậy vì người ghi đôi khi không có bản kinh trong tay, chỉ nghe nói lại. 3) Lịch đại Tam bảo ký (Taisho 49, 2034:22-128) do Phí Trường Phòng tập thành 4 năm sau Tùy Chúng kinh mục lục trên, với mục đích chứng tỏ Phật Pháp siêu việt hơn Đạo giáo, đưa đến tình trạng ghi chép hổn tạp không đáng tin cậy. Còn có một số mục lục khác sau thời đại sư Trí Khải, không cần liệt kê ở đây. Tuy nhiên, chỉ 3 bộ mục lục cùng với bộ của Đạo An đã mất, cho thấy tình trạng phong phú của kinh điển bằng Hán văn được lưu hành đương thời. Ngoài ra, lại còn có những sinh hoạt khác, như : – các nhà du hành, nổi tiếng nhất là Pháp Hiển du hành Ấn độ và Trung Á những năm 399-414 để sưu tập thêm kinh điển; – năm 402, Cưu ma La thập đến Trường an dịch cc kinh Đại thừa, trong đó có kinh Pháp Hoa; – Bồ đề Đạt ma (Bodhidharma, 470-543) đến Trung hoa vào thời Lương Võ đế để đề xướng Thiền. – Đàm Loan (476-542), được kinh Quán Vô Lượng Thọ từ Bồ-đề-lưu-chi, khởi xướng Tịnh độ tông : kết hợp tư tưởng Long Thọ và Thế Thân, dung hợp Không tông vào giáo nghĩa Tịnh độ. – năm 504 Lương Võ đế Võ đế là vị vua đầu tiên quy y Phật, thọ giới cư sĩ tại gia, hộ trợ Phật giáo. – Đạo Xước (562-645) tiếp tục công trình của Đàm Loan, cực lực xiển dương Tịnh độ tông tại – Thiện Đạo (613-681) tu học cùng Đạo Xước, viết Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ (Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ) – Huệ Năng (638-713, Lục tổ Thiền) – Công chúa Văn Xương triều Đường thành hôn cùng vua Tây tạng năm 641, bắt đầu truyền bá Phật Pháp vào xứ này. Tóm lược, Phật Pháp vào thời kỳ của đại sư Trí Khải rất đa dạng, tại cả Bắc và Nam phương, nhưng mang nhiều sắc thái khác nhau. Tai miền Bắc, chư tăng chuyên về thiền tập và tụng kinh, trong khi ở phương Nhân vật lỗi lạc đó, tại Trung hoa, trong môi trường Phật Pháp đang phát triển rầm rộ nhưng hổn độn đó, là đại sư Trí Khải (538-597 stl), một nhà tư tưởng đã hệ thống hóa toàn bộ giáo pháp của đức Phật (phán giáo) để hình thành một tổng quan Phật Pháp như ta tri nhận qua Bộ Đại Tạng Kinh ngày nay, và là một nhà triết học Phật gia vĩ đại tương xứng, đứng ngang hàng với Long Thọ (Nàgàrjuna, tk 2) bên trời Thiên Trúc với triết thuyết Tam Đế đặc biệt của ngài. (còn tiếp) Chú thích: (1) Một số trước khi đến Quảng châu thường ghé qua Giao châu (tức miền bắc Việt nam ngày nay) một thời gian để hoằng pháp và tạo tên tuổi trưóc khi tiến bắc. (2) Cũng có giả thuyết là vùng tam giác Miến Điện, Lào, nam Trung quốc. (3) Xem Lê Manh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt nam, q. 1 (4) Trúc Pháp Lan và Trúc Phật Niệm vẫn còn xem là thuộc huyền sử. (5) Tìm đọc “Khương Tăng Hội, sáng tổ Phật giáo Việt nam” của Tuệ Hạnh, đăng trên nhiều tạp chí Phật học tại hải ngoại. (6) Viết theo Richard J. Smith. Buddhism and the “Great Persecution” in Chinese Culture, edited by Cheu Hock-Tong. Malaysia, Pelanduk Pub. 2000. tr. 21. (7) Cưu ma La thập (Kumarajiva) cùng Chân Đế (Paramartha) và Huyền Trang được xem là ba nhà phiên dịch tài giỏi nhất, đã thay đổi toàn diện lịch sử văn hóa và văn học Trung hoa. (8) Các học giả Tây phương dịch kinh Pháp Hoa trực tiếp từ Phạn ngữ, nếu đối chiếu với bản Hán dịch của ngài La-thập ta sẽ thấy có một vài khác biệt. Xem lời nói đầu trong bản dịch kinh Pháp Hoa của HT Thích Trí Quang. (9) Ở đây cũng cần nhắc đến sự sai biệt giữa Đạo giáo và Lão giáo: Đạo giáo là theo triết lý tiên thiên ẩn cư luyện đan, Lão giáo thì nhập thế dùng phù chú thuật số như Ngũ đẩu giáo…; tuy nhiên người tu theo Lão giáo thì phải gọi là Đạo sĩ hay Đạo gia. (10) Có 2 bản dịch Triệu luận: 1 của Thiền sư Thích Duy Lực, "Triệu luận", phát hành năm 1987 tại 1 của Tuệ Hạnh, "Tăng Triệu và Tánh Không Học Trung Hoa", Viện Đại học Vạn Hạnh, 1974. Đang tái bản. (11) Viết theo Richard J. Smith, bài đã dẫn. (12) Tăng Triệu, một trong 4 đại đệ tử của La-thập (tứ kiệt), được giao giữ việc chấp bút ghi chép này, nhờ đó mà cảm tác các tiểu luận lập thành Triệu luận. (13) Đạo Sanh cũng là người đầu tiên thiết lập hệ thống tư tưởng của Phật Pháp trước khi Trí Khải hoàn thành Phán giáo. Xem bài viết về "Những khuôn mặt tạo thành lịch sử: Đạo Sanh", sắp đăng. (14) Thập niên 1924-1934, một số học giả giáo sư do Takakusu Junjiro và Watanabe Kaigyoku làm trưởng nhóm đã tập thành toàn bộ kinh điển Phật Pháp hiện hữu đặt tên là Taishò Shinshù Daizòkyò, Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, được toàn thể thế giới học thuật dùng làm tài liệu tham khảo và dẫn chứng căn bản chánh yếu nhất. Sách Tây phương viết tắt là T. hay Taisho (Đại chánh) tiếp đến là quyển số (55), mục số (2145) và :số trang. |
Cập nhật ( 31/05/2011 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com