LÒNG NHÂN YÊN TỬ
* Nguyên Hòa
Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông, nguyên là vị vua thứ ba của triều Trần không thể ngờ rằng, 700 năm sau ngày ông mất, những câu thơ ngẫu hứng của ông vẫn còn ngân nga trên đất Việt và gợi lên những suy cảm đượm thiền cho những kẻ hậu sinh vừa muốn thanh tâm, vừa mơ ước góp được phần dù là nhỏ bé cho sự nghiệp chấn hưng mảnh đất Đại Việt, vốn liên tục bị nhấn chìm vào những trầm luân thời cuộc. Đó có lẽ là một buổi sáng, qua Tết chưa lâu nhưng dường như cũng đã lạt màu xuân ở những năm đầu thế kỷ XIV, Yên Tử lặng lẽ, sương mờ mịt bay, lạnh nhưng vẫn thoang thoảng hơi xuân ấm áp hòa quyện hương trầm.
Bỗng vang lên một giọng thơ khuya khoắt: “Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm tại bách hoa trung. Như kim khám phá đông hoàn diện, Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng” (tạm dịch: Thời trẻ chưa từng hiểu rõ “sắc” với “không”, Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa. Giờ đã biết được khuôn mặt của chúa xuân, Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản chùa ngắm cảnh hoa rụng“).
Có lẽ lúc đó Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông, nguyên là vị vua thứ ba của triều Trần, thi nhân cư sĩ vương giả, không thể ngờ rằng, 700 năm sau ngày ông mất, những câu thơ ngẫu hứng của ông vẫn còn ngân nga trên đất Việt và gợi lên những suy cảm đượm thiền cho những kẻ hậu sinh vừa muốn thanh tâm, vừa mơ ước góp được phần dù là nhỏ bé cho sự nghiệp chấn hưng mảnh đất Đại Việt, vốn liên tục bị nhấn chìm vào những trầm luân thời cuộc.
Vua Trần Nhân Tông, tên húy là Khâm, sinh ngày 11/11/1258, là trưởng nam của vua Trần Thánh Tông. Sử cũ chép rằng, khi mới cất tiếng khóc chào đời, thái tử Trần Khâm đã ngay lập tức tỏ rõ phong độ phi phàm, nói theo lời của sách Đại Việt sử ký toàn thư, “tinh anh thánh nhân, thuần tuý đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng”.
Thêm vào đó lại có nốt ruồi đen trên vai trái, một điềm lành hiếm có nếu tin theo tướng số. Ông nội (Trần Thái Tông) và vua cha (Trần Thánh Tông) đều cực kỳ mừng rỡ, coi như trong vương triều đã sinh ra được Kim Tiên Đồng Tử…
Thực tế sau này đã chứng tỏ, Trần Khâm là một nhân vật kiệt xuất hiếm có trong vương triều Trần, vốn tự thân đã rất phong phú các danh nhân với những võ công lừng lẫy ba lần đại phá quân Nguyên Mông xâm lược, những kẻ vốn luôn tự đắc vì đã tung hoành khắp hai lục địa Á – Âu suốt mấy trăm năm như ở chốn không người.
Lên ngôi năm 21 tuổi, Trần Nhân Tông đã cùng vua cha cầm quân hai lần đánh thắng kẻ xâm lược hùng mạnh nhất thời đó (vào năm 1285 và 1288) và có nhiều đóng góp trong việc mở mang và củng cố bờ cõi về phía Tây và phía Nam. Ông là người không bao giờ chủ quan với vốn kiến thức thu lượm được trong cuộc đời không ít biến cố và thử thách và cho tới hơi thở cuối cùng vẫn tràn trề ham muốn thế thiên hành đạo để tôn vinh cái thiện và lòng nhân.
Sử cũ ghi lại nhiều câu chuyện hay về phép đối nhân xử thế của vua Trần Nhân Tông, cả khi ông còn ngự trên ngôi vua lẫn khi đã xuất gia. Ông là người luôn tìm ra cách giải quyết các vấn đề đầy mâu thuẫn theo cách ít tổn hại nhất.
Năm 1280, một thường dân đón xa giá của vua kêu về việc mình bị xử ép trong một vụ đụng độ với em trai của công thần Đỗ Khắc Chung. Trần Nhân Tông gọi viên quan xử kiện lên hỏi. Viên quan biện bạch: “Án đã xử xong nhưng hình quan thoái thác không chịu chuẩn định”.
Trần Nhân Tông hiểu ngay là hình quan suy cho cùng cũng chỉ do sợ Đỗ Khắc Chung nên không dám thực thi đúng chức phận nên đã sai một hoạn quan thân cận đi xác minh được rõ ràng đúng sai. Mọi việc êm đẹp vì kẻ thứ dân bị oan đã được nhận phán quyết đúng.
Đồng thời vua cũng không trách tội các pháp quan vì những lý do tế nhị đã phải né tránh việc xử lý thẳng tay người thân của một trọng thần. Đó rõ ràng là một phương án để “cừu no mà cỏ vẫn nguyên”. Không nhiều vị vua trung hậu một cách kịp thời và anh minh như thế!
Với lầm lỗi của người dưới, Trần Nhân Tông biết cách xử lý nghiêm ngắn nhưng không quá khắc nghiệt để luôn có thể mở ra một lối thoát khả dĩ nào đó, thoạt đầu chỉ như lượng khoan hồng với tội đồ nhưng rốt cuộc lại để lại danh thơm muôn đời về lòng nhân hậu. Cũng theo sử cũ, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vốn có công đánh giặc Nguyên trước đó nên được phong làm Phiêu kỵ Đại tướng quân…
Ỷ mình được là trọng thần, Trần Khánh Dư bước qua cả lễ giáo, thông dâm với công chúa Thiên Thụy, người đã được gả cho Hưng Nghĩa Vương Nghiễn, con trai Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tội ấy thời đó khó bảo toàn được mạng sống. Tuy nhiên, khi buộc phải ra lệnh trừng phạt Trần Khánh Dư, Trần Nhân Tông vẫn dặn thủ hạ thân tín mở ra cho viên danh tướng này sinh lộ.
Thoát chết, Trần Khánh Dư lui về Chí Linh làm nghề bán than… Chuyện tưởng như cũng nguôi đi nhưng năm 1982, một lần đi thuyền đỗ ở bến Bình Than, tình cờ Trần Nhân Tông nhìn thấy một người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn trên chiếc thuyền lớn chở than đi ngang qua. Nhớ lại người cũ, Trần Nhân Tông hỏi quan thị thần: “Đó chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao?”. Và vua sai thị thần đuổi theo con thuyền đó hỏi về nhân thân kẻ lái thuyền.
Trần Khánh Dư vốn tính ngang tàng nên thoái thác: “Lão chỉ là người buôn bán than thôi, hà cớ gì mà nhà vua phải bận tâm”. Nghe thị thần thật thà tâu lại, Trần Nhân Tông nói luôn: “Khẩu khí ấy chắc không phải người thường, có lẽ là Trần Khánh Dư rồi!”.
Vua sai thị thần gọi ngay người lái thuyền tới. Nhận ra danh tướng cũ, lệ vua như muốn ứa ra. Trần Nhân Tông than: “Là trang nam nhi sống trong trời đất, chỉ vì chuyện mỹ nữ mà rơi vào cảnh bán than như thế thì cũng là tột cùng của sự cực khổ rồi!”. Trần Nhân Tông đổi giận thành lành, ban áo ngự cho Trần Khánh Dư và lại mời ông tham gia cùng bàn việc quốc gia đại sự như các trọng thần khác, nhiều phần tâm đầu ý hợp… Cảm kích về tấm lòng độ lượng của bậc minh quân, Trần Khánh Dư lẽ nào lại không mang hết sức mình giúp dập…
Trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông sau đó, Trần Khánh Dư đã có nhiều đóng góp không nhỏ. (Cũng phải nói thêm rằng, là một dũng tướng trong thời chiến, nhưng trong thời bình, Trần Khánh Dư lại bộc lộ nhiều thói hư tật xấu của quan tham nên rốt cuộc, kết thúc cuộc đời cũng không vẻ vang gì. Khi tiếng xấu động tới tai vua, Trần Khánh Dư đã cả gan biện bạch: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ!”. Có lẽ đây là một trong những hình mẫu tệ hại nhất của quan tham trong lịch sử nước Việt ta).
Cập nhật ( 07/10/2012 )