BẢN GỐC VÀ CÁC DỊ BẢN CỦA BÀI DẠ CỔ HOÀI LANG
*Trần Phước Thuận
Từ lúc bài Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu ra đời đến nay chưa đến trăm năm, nhưng đã có rất nhiều dị bản . Nhiều người cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là do sự phát triển quá nhanh của bài Dạ cổ hoài lang ; nhưng cũng có người nói từ khi bài Dạ cổ được công bố đến vài chục năm sau đã được lưu hành gần như khắp Nam bộ từ phạm vi đờn ca tài tử cho đến cải lương, nhưng vấn đền in ấn để phổ biến lại rất hạn chế, đa số chỉ được khẩu truyền, những người ghi chép đôi khi lại tự ý ghi theo cách hiểu của mình, hoặc đọc cho người khác chép lại thì đọc sai hoặc đọc không rõ, những bản này lại tiếp tục được phổ biến, thành ra bài Dạ cổ hoài lang càng ngày càng xa nguồn gốc.
Thực ra bản gốc Dạ cổ hoài lang là bản đã được công bố từ đêm rằm tháng Tám (âm lịch) năm Mậu Ngọ (1918) tại Bạc Liêu ; đây là bản 20 câu nhịp đôi gồm cả nhạc lẫn lời, bản thảo do chính tác giả lưu giữ, vì thiếu điều kiện bảo quản nên chỉ hơn 10 năm sau đã bị mối mọt cắn nát. Nhưng trong khoảng thời gian cuối đời, tác giả đã chép lại bản này để biếu cho một số bạn thân hoặc đọc lại cho những người hâm mộ ghi chép. Năm 1972 chính tác giả cũng đã chép lại bài Dạ cổ hoài lang vào trong tập bản thảo các sáng tác mới của mình ; ông thường nói : “ Dạ cổ hoài lang là bản Vọng cổ đầu tiên, nay bản gốc đã hư nếu tôi không ghi lại thì sau này sẽ không còn bản gốc nữa”; tập bản thảo này được gia đình tác giả lưu giữ và sau khi tác giả qua đời, các con ông đã giao lại cho Bảo Tàng tỉnh Bạc Liêu.
Như vậy, bản Dạ cổ hoài lang do chính tay tác giả chép lại trong tập bản thảo năm 1972 hoặc các bản tác giả đã tặng cho bạn bè đều có thể xem là bản gốc, nhưng tiếc thay các bản này đều không ghi dấu nhạc mà chỉ chép lời ca, kể cả bản Dạ cổ hoài lang được ghi trong tập chép nhạc của nhạc sĩ Trần Tấn Hưng cũng không có dấu nhạc. Các bản này đều giống nhau cũng là 20 câu nhịp đôi trong đó có 2 nhịp ngoại ở câu thứ 4 và thứ 12, lời ca đều có nội dung như sau :
1/- Từ, từ phu tướng
2/- Báu kiếm sắc phán lên đàng
3/- Vào ra luống trông thơ nhạn
4/- Năm canh mơ màng x
5/- Trông tin chàng
6/- Gan vàng càng lại thêm đau
7/- Lòng dầu say ong bướm
8/- Xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang
9/- Đêm luống trông tin bạn
10/- Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12/- Xin đó chớ phụ phàng x
13/- Chàng chàng có hay
14/- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- Bao thuở đó đây sum vầy
16/- Duyên sắc cầm tình thương với nhau
17/- Nguyện cho chàng
18/- Đặng chữ bình an
19/- Trở lại gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi với đó đây (1)
Về việc biến đổi lời ca, như trên đã nói có rất nhiều nguyên nhân – chủ quan có khách quan cũng có, có người tự ý thay đổi, cũng có người lầm mà đổi. Người đầu tiên có ý biến đổi là ông Ký Tấn, người làm nghề tụng kinh đám tang cũng vừa là một nghệ nhân ca tài tử lúc bấy giờ ; từ những năm đầu tiên sau khi bài Dạ cổ hoài lang ra đời, ông Tấn đã đề nghị thay hai chữ “tin chàng” ở cuối câu 5 thành “tin bạn”, theo ông thì chữ nhạc của cuối câu thứ 5, 15 và 19 trùng lắp nên sửa lại hay hơn. Mặc dù lời đề nghị của ông không được thực hiện, nhưng kể như ông là người đầu tiên khơi động ý niệm thay đổi nhạc và lời của bản Dạ cổ hoài lang .
Người thứ hai là cô Ba Chương thường gọi là cô BaVàm Lẻo (vợ của nhạc sĩ Ba Lất), một danh ca vào hàng tiền bối ở Bạc Liêu ; có lẽ cô cho rằng lời ca trong bản gốc hơi khó ca nên cô đã tự ý sửa đổi cho dễ ca hơn . Theo lời nghệ sĩ Bảy Nhiêu kể lại : “ Đêm 18/10/1921 là đêm khai trương tại đình Trung Nhứt (Thốt Nốt) cũng là đêm tôi ra sân khấu ca ngâm hát xướng, mặc dù vợ tôi mới sinh Kim Cúc chưa đầy tháng … Cùng năm ấy, tôi xuống Bạc Liêu học ca Dạ cổ hoài lang với chị Ba Vàm Lẻo và học đờn với nhạc sĩ Ba Chột. Tôi say mê, tối ngày vừa đờn vừa ca : “ Từ phu tướng . Báu kiếm sắc phong lên đàng . Vào ra luống trông tin chàng . Năm canh mơ màng …”(2). Bản của cô Ba Vàm Lẻo dùng để dạy ông Bảy Nhiêu đã thay đổi 27 chữ trong 11 câu của bản gốc . Cô Ba Vàm Lẻo là một danh ca, ông Bảy Nhiêu sau đó ít lâu cũng nổi tiếng ; bản Dạ cổ đổi mới này lại dễ ca, cho nên được nhiều người ca theo . Nghệ sĩ Đỗ Lộc Châu (1913 – 1978) ở Bạc Liêu cũng xem đây là sở đắc của mình, nhưng ông lại nghĩ trong câu thứ 2 nên dùng chữ “sắc phán” của bản gốc hay hơn “sắc phong” của cô Ba, nên trong tập chép bài ca của ông có ghi lại toàn bộ bản đổi mới của cô Ba Vàm Lẻo nhưng câu thứ 2 vẫn ghi là “sắc phán” . Bản Dạ cổ hoài lang này vẫn là 20 câu nhịp đôi, nhưng có 5 nhịp ngoại ở các câu : 4, 6, 12, 16 và 20 ; có nội dung như sau:
1/- Từ phu tướng
2/- Báu kiếm sắc phán lên đàng
3/- Vào ra luống trông tin chàng
4/- Năm canh mơ màng x
5/- Đau xót xa gan vàng
6/- Đôi hàng lụy rơi x
7/- Lòng dầu xa ong bướm
8/- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9/- Đêm luống trông tin bạn
10/- Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12/- Sao nỡ phụ phàng x
13/- Chàng có hay
14/- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- Bao thuở đó đây sum vầy
16/- Duyên sắc cầm từ đây x
17/- Nguyện cho chàng
18/- Hai chữ bình an
19/- Trở lại gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi x (3)
Bài ca canh tân này được ông Bảy Nhiêu mang về Sài Gòn phổ biến ở các tỉnh miền Đông, tại Bạc Liêu thì được ông Đỗ Lộc Châu cổ vũ, nên chẳng bao lâu đa số nghệ sĩ và những nhà nghiên cứu cổ nhạc Nam bộ đều biết đến . Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại được các nghệ sĩ Trần Thanh Hòa, Đỗ Lâm Tòng, Trương Văn Đầy … áp dụng giảng dạy cho các lớp cổ nhạc ở Bạc Liêu và sử dụng trong sinh hoạt văn nghệ tại Câu lạc bộ Cao Văn Lầu, cho nên bản Dạ cổ do cô Ba Vàm Lẻo cải tiến càng ngày càng được phổ biến rộng hơn.
Ông Đỗ Lâm Tòng (con ông Đỗ Lộc Châu) đã nhiều lần xác nhận bản này được canh cải chỉ nhằm mục đích dễ ca ; ông còn nói,trong một số đợt ca diễn cũng có mặt ông Cao Văn Lầu nhưng lần nào ông Sáu cũng vẫn vui vẻ không có phê phán. Vì vậy đến khi câu lạc bộ Cao Văn Lầu được thành lập ( 1990 ) ông Đỗ Lâm Tòng đã mạnh dạn đem bản Dạ cổ hoài lang này để làm tài liệu sinh hoạt nội bộ và giảng dạy cho học viên. Nhưng đến nay, bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở đó mà vẫn tiếp tục biến đổi.
Trong quá trình biến đổi cũng có người nói lời ca Dạ cổ hoài lang không phải của ông Cao Văn Lầu, mà Cao Văn Lầu chỉ là người phổ nhạc. Người đầu tiên phát biểu là ông Nguyễn Tử Quang, trên bán nguyệt san Bách khoa số 63 ngày 13/8/1959, ông đã khẳng định bài Dạ cổ hoài lang là một bài thơ do sư Nguyệt Chiếu sáng tác. Lời phát biểu của ông cũng có một số người tin theo ; nhưng sau khi điều tra và xác minh kỹ lại thì nhà sư Nguyệt Chiếu đích thực không phải là tác giả bài thơ này. Xét qua nội dung, nó cũng chỉ là một trong những hình thức biến đổi từ bản gốc Dạ cổ hoài lang, tuy chưa biết người chủ động biến đổi là ai nhưng do ông Nguyễn Tử Quang đưa ra nên tạm gọi là bản Nguyễn Tử Quang; bản này đã biến đổi 22 chữ trong 11 câu của bản gốc, hiện nay cũng có nhiều người dùng để ca:
1/- Từ phu tướng
2/- Báu kiếm sắc phong lên đàng
3/- Vào ra luống trông tin chàng
4/- Thêm đau gan vàng
5/- Trông tin chàng
6/- Gan vàng thêm đau
7/- Chàng dầu say ong bướm
8/- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9/- Đêm ngóng trông tin bạn
10/- Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12/- Năm canh mơ màng
13/- Chàng hỡi chàng có hay
14/- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- Bao thuở đó đây sum vầy
16/- Duyên sắc cầm tình thương
17/- Nguyện cho chàng
18/- Đặng chữ bình an
19/- Trở lại gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi (4) .
Bản Dạ cổ hoài lang có ghi dấu nhạc xưa nhất bằng “giấy trắng mực đen” chính là bản của soạn giả Trịnh Thiên Tư, bản này được biên soạn khoảng năm 1926, cũng là bản duy nhất được ông Cao Văn Lầu viết lời xác nhận và giới thiệu (đến năm 1962 mới được in trong tác phẩm Ca nhạc cổ điển của ông). Nhưng ở đây Trịnh Thiên Tư đã biến bản Dạ cổ hoài lang 20 câu nhịp đôi thành 20 câu nhịp 4, nhưng chỉ có 4 nhịp ngoại ở các câu : 6, 12, 16 và 20 ; cả lời ca cũng đổi khác đến 11 câu ; trong đó có nhiều chữ thay thế, thêm vào hoặc bớt ra như sau :
Phần nhạc
1/- x hò là x xang xê cống
2/- x ú liu cổng liu cổng xê xang
3/- x hò xê líu cổng xê xang là hò
4/- x xề xang xê xang là hò
5/- x liu xáng u liu xàng
6/- x liu xàng xàng xề liu “ú liu”
7/- x hò là xang xê cống
8/- x xê líu xừ cống xê líu xừ xang
9/- x hò xê cống xê xang xự
10/- x xê liu xừ cống xê xừ xang
11/- Xừ x xang xừ cổng xê xang là hò
12/- Xề xang xê là hò “xể la hò”
13/- x cống xê xang hò x xang cống xê
14/- x xê liu xừ cống xê líu xừ xang
15/- x ú líu cộng liu x cộng xê xàng
16/- Liu xáng xàng xề phạn liu “ú liu”
17/- x là xự cổng xê xang là hò
18/- x xê líu xự cống xê líu xự xang
19/- x ú líu cộng liu cộng xê xàng
20/- Liu xáng xàng xể phạn liu “ú liu”
Phần lời :
1/- x Từ là x từ phu tướng
2/- x Báu kiếm sắc phán lên đàng
3/- x Vào ra luống trông tin nhạn
4/- x Năm canh x mơ màng
5/- x Em luống trông tin chàng
6/- x Ôi gan vàng thêm đau x
7/- x Đường dầu xa ong bướm
8/- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9/- x Còn đêm luống trông tin bạn
10/- x Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng x phu vọng luống trông tin chàng
12/- Lòng xin chớ phụ phàng x
13/- x Chàng là chàng có hay
14/- x Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- x Biết bao thuở đó x đây sum vầy
16/- Duyên sắc cầm đừng lợt phai x
17/- x Là nguyện x cho chàng
18/- x Hai chữ an x bình an
19/- x Trở lại x gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi x (5)
Bản của Trịnh Thiên Tư có 4 nhịp ngoại ở cuối các câu 6, 12, 16 và 20 và ở giữa các câu 1, 4, 11, 15, 17, 18 và 19 đều có ghi nhịp ngoại . Bản này tuy khác xa bản gốc, nhưng được chọn đăng trong sách Ca nhạc cổ điển, sách đó lại được ông Cao Văn Lầu viết lời giới thiệu ; vì vậy cũng được nhiều người tin tưởng và xem đây là một giai đoạn chuyển mình của bài Dạ cổ hoài lang trong quá trình chuyển hóa thành Vọng cổ (ông Trịnh Thiên Tư đã phân mỗi câu thành 4 nhịp rất rõ ràng, bản chép lại này tạm dùng dấu x thay cho nhịp ngoại và chữ đậm la chỗ nhịp nội).
Khoảng giữa thập niên 50 có một dĩa hát mang tên Dạ cổ hoài lang của Nhà xuất bản dĩa hát Việt Nam – Hà Nội; bản này do cô Ái Liên ca, dàn đờn gồm có : Thanh Nha đờn kìm, Ba Bằng đờn cò và Năm Bá đờn độc huyền. Nội dung của bài Dạ cổ hoài lang được trình bày ở đây khác rất nhiều so với bản gốc.
1. Từ là từ phu tướng
2. Bửu kiếm sắc phong lên đàng
3. Vào ra luống trong tin chàng
4. Đêm năm canh mơ màng
5. Em luống trông tin nhạn
6. Ôi gan vàng quặn đau
7. Đường dẫu xa ong bướm
8. Xin đó đừng đó đừng phụ nghĩa tào khang
9. Còn đêm luống trông tin bạn
10. Ngày mõi mòn như đá vọng phu
11. Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
12. Lòng xin chớ phụ phàng
13. Chàng hỡi chàng có hay
14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15. Biết bao thuở đó đây sum vầy
16. Duyên sắc cầm đừng lợt phai
17. Thiếp cũng nguyện cho chàng
18. Nguyện cho chàng hai chữ bình an
19. Mau trở lại gia đàng
20. Cho én nhạn hiệp đôi (6).
Có một điều rất đặc biệt là bản Dạ cổ hoài lang hiện nay đang được phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và cũng giống như ở Việt Nam, bản Dạ cổ hoài lang có nhiều dị bản. Sau đây là một dị bản hiện đang lưu hành ở Mỹ, bài này đã đăng trên đặc san Qúy Dậu 1993 (trang 28) của Hội Ái hữu Bạc Liêu Nam Cali có nội dung gần giống như bản của Trịnh Thiên Tư chỉ khác có ba chữ, gồm 20 câu như sau :
1/- Từ là từ phu tướng
2/- Báu kiếm sắc phán lên đàng
3/- Vào ra luống trông tin nhạn
4/- Năm canh mơ màng
5/- Em luống trông tin chàng
6/- Gan vàng thêm đau
7/- Đường dù xa ong bướm
8/- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9/- Còn đêm luống trông tin bạn
10/- Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12/- Lòng xin chớ phụ phàng
13/- Chàng là chàng có hay
14/- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- Biết bao thuở đó đây sum vầy
16/- Duyên sắc cầm đừng lợt phai
17/- Là nguyện cho chàng
18/- Đặng hai chữ an bình an
19/- Trở lại gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi (7).
Có một bản Dạ cổ hoài lang khác đã được nghệ sĩ Hương Lan (con của nghệ sĩ Hữu Phước) và một số nghệ sĩ trình diễn nhiều lần, có thể nói khá thịnh hành ở Mỹ và một số nước trên thế giới, nội dung của bản này có một số từ đệm ở cuối các câu 6 và 20 :
1. Từ là từ phu tướng
2. Bảo kiếm sắc phong lên đàng
3. Vào ra luống trông tin chàng
4. Năm canh mơ màng
5. Em luống trông tin chàng
6. Ôi gan vàng quặn đau í a
7. Đường dù xa ong bướm
8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9. Đêm luống trông tin bạn
10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12. Sao nỡ phủ phàng
13. Chàng hỡi chàng có hay
14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15. Bao thuở đó đây sum vầy
16. Duyên sắc cầm đừng lạt phai
17. Là nguyện cho chàng
18. Nguyện cho chàng đặng chữ bằng an
19. Mau trở lại gia đàng
20. Cho én nhạn hiệp đôi í a (8).
Các bản Dạ cổ hoài lang ngoài bản viết tay do chính tác giả ghi lại, còn có ba bản canh tân ở Miền Nam của cô Ba Vàm Lẻo, Nguyễn Tử Quang, Trịnh Thiên Tư; một bản ở Miền Bắc; hai bản ở Mỹ được nhiều người sử dụng. Ngoài ra còn hàng chục dị bản khác hiện đang lưu hành, nhưng các bản này đều có xuất xứ từ một trong bảy bản trên. Hiện nay bản Dạ cổ hoài lang được phổ biến rất rộng không những ở trong nước mà còn được phổ biến ở nước ngoài.
Nhưng bài Dạ cổ hoài lang được phổ biến càng rộng thì càng có nhiều dị bản, một bài ca chỉ mới ra đời chưa đầy trăm năm mà đã có nhiều bản khác nhau, việc này tuy đủ chứng minh bài Dạ cổ được nhiều người lưu ý, nhưng vì có quá nhiều dị bản nên đã gây trở ngại không ít cho những nhà nghiên cứu, những nhà giáo đang giảng dạy âm nhạc cổ truyền và cả những nghệ nhân đờn ca tài tử.
Do nhận thức được điều quan trọng này, vào ngày 16 tháng 8 năm 2010 Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bạc Liêu đã phối hợp với một số cơ quan chức năng và nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc tổ chức cuộc Tọa đàm tại thành phố Hồ Chí Minh để xác định bản chuẩn Dạ cổ hoài lang. Buổi tọa đàm diễn ra sôi nổi, có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cuối cùng đều đã thống nhất dùng bản Dạ cổ hoài lang đã đăng trong Ca nhạc cổ điển của Trịnh Thiên Tư kết hợp với bản viết tay của ông Cao Văn Lầu để làm bản chuẩn.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã căn cứ vào kết quả này ra Quyết định số: 2257/QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2010, công bố bản Dạ cổ hoài lang chuẩn của nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Theo nội dung của Quyết định này, về phần nhạc vẫn giữ nguyên theo bản đã đăng trong Ca nhạc cổ điển, các dấu nhạc vẫn giống như vậy, nhịp nội nhịp ngoại vẫn không đổi khác, chỉ khác ở chỗ từ nhịp 4 biến thành nhịp 2; về phần lời ca thì cũng bản này chỉ bớt hai chữ: Chữ “còn” ở đầu câu 9 và chữ “biết” ở đầu câu 15. Chữ “sắc” trong câu 16 đổi lại thành “sắt”.
Nội dung lời ca như sau:
1/- Từ là từ phu tướng
2/- Báu kiếm sắc phán lên đàng
3/- Vào ra luống trông tin nhạn
4/- Năm canh mơ màng
5/- Em luống trông tin chàng
6/- Ôi gan vàng thêm đau
7/- Đường dầu xa ong bướm
8/- Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
9/- Đêm luống trông tin bạn
10/- Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
11/- Vọng phu vọng luống trông tin chàng
12/- Lòng xin chớ phụ phàng
13/- Chàng là chàng có hay
14/- Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
15/- Bao thuở đó đây sum vầy
16/- Duyên sắt cầm đừng lợt phai
17/- Là nguyện cho chàng
18/- Hai chữ an bình an
19/- Trở lại gia đàng
20/- Cho én nhạn hiệp đôi (9)
Chú thích :
(1) Tập bản thảo của nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
(2) Tạp chí Tin Văn, số đặc biệt kỷ niệm nửa thế kỷ cải lương-1966 trang 92.
(3) Tập chép nhạc của nghệ sĩ Đỗ Lộc Châu.
(4)Toan Ánh, Tìm hiểu nghệ thuậ cầm ca,NxbĐồngTháp-1998, trang208-209
(5) Trịnh Thiên Tư, Ca nhạc cổ điển – 1962, trang 178 – 179.
(6) Dĩa hát 78 tua mang tên Dạ cổ hoài lang, NXB dĩa hát Việt Nam– Hà Nội
(7) Hội Ái Hữu Bạc Liêu Nam Cali (Mỹ) đặc san Qúy Dậu 1993, trang 28.
(8) Album Dạ cổ hoài lang của Hương Lan (xuất bản ở Mỹ).
(9) Quyết định số: 2257/QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2010 của UBND tỉnh Bạc Liêu.
Cập nhật ( 27/09/2014 )