23/06/2008 |
PHONG CÁCH TÁN TỤNG TRONG PHẬT GIÁO VIỆT Hiện nay, trên thế giới về cách tán, tụng có ba trường phái : Bắc tông hay Đại thừa gồm có Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Sau khi nghe qua ba cách tụng kinh, chúng ta thấy rằng cách tán, tụng trong truyền thống Việt (Phần minh họa bằng các đoạn trích các phong cách tụng của các nước Trung Quốc (Danh hiệu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), Nhật Bản (Kinh A Di Đà), Campuchia, Tây Tạng và miền Nam Việt Khi nghe qua cách niệm “Nam mô A Di Đà Phật” trong các nước Đông Á, nghe qua vài bài tụng như chú Lăng Nghiêm, kệ Kinh kinh … chúng tôi có những nhận xét sơ bộ sau đây : 1.- Không có một thể nhạc Phật giáo chung cho các nước Đông Á, như cách hát “Chant grégorien” chung cho các nước Tây Âu, Pháp, Ý, Tây Ban Nha … Lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc chung của các tụng, tán tùy mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi. 2.- Mặc dù đạo Phật thành lập từ Ấn Độ và mặc dù một số kinh chuyển từ từ Trung Quốc sang các nước Đông Á, nét nhạc trong các bài tụng, bài tán trong truyền thống Việt 3.- Trong nước Việt 4.- Có hai điệu thức chính được dùng : Điệu Thiền (như hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Như bài tán “Dương chi tịnh thủy” ca ngợi Đức Quan âm không có chi buồn. Dương chi tịnh thủy Biến sái tam thiên Tánh không bát đức lợi nhân thiên Pháp giới quảng tăng diên Diệt tội tiêu khiên Hỏa diệm hóa hồng liên Khi nước cam lộ được nhành dương (từ Bồ tát) rải xuống trần, một giọt biến thành ba ngàn giọt rửa sạch tội lỗi oan khiên. Núi lửa hóa thành bông sen hồng. Bài tán đó được tán theo điệu Thiền. Nhưng khi bài tán “Nhất diện” có những câu : Thân hình bào ảnh tợ ngân sương Mạng tơ ngân sương … Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng. Nhớ tới cái mong manh của cuộc đời nên bài tán được tán theo điệu Ai. Điệu thực cũng tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi. Như kệ Khai kinh hay tụng kinh A Di Đà, trong khi chùa tụng khác mà trong một đám táng tụng khác. Từ thực tế trên có thể kết luận : Cách tán, tụng trong truyền thống Phật giáo Việt Nhạc Phật giáo Việt VÀI ĐẶC TÍNH CỦA ÂM NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT 1.- Âm nhạc Phật giáo Việt Trong đời sống thường nhật tại các chùa, mỗi ngày có ba thời kinh : sáng từ 4 giờ đến 5 giờ; Trưa cúng ngọ 12 giờ; Tối 6, 7 giờ. Mỗi lần đều có chuông báo chúng gọi Tăng Ni. Mỗi thời điều có bài ụng, tán riêng. Như trong thời sáng thì có kệ dâng hương, chú Lăng Nghiêm, Thập chú, Bát Nhã Tâm kinh, niệm danh hiệu Phật Thích Ca 108 lần, rồi phát nguyện, hồi hướng. Trong thời tối, thiên về Tịnh độ, nên sau khi dâng hương, tụng chú Vãng sinh, kinh Hồng Lăng Nghiêm, trì chú Phổ Am, chú Đại Bi. Ngoài các thời cúng trong chùa còn có những lễ khác như Phật Đản (Ngày sanh của Đức Phật), Thành Đạo (Ngày Đức Phật tìm được chân lý dưới cội bồ đề), Vu Lan (Mùa báo hiếu), chẩn tế cô hồn … Trong dân gian còn có những lễ táng, thỉnh linh, tiến linh, đề phan, đề vị. 2.- Nhạc Phật giáo là một loại thanh nhạc. Khí nhạc chỉ để phụ họa cho lời tán, tụng Người Nhật có danh từ Shômyo, người Trung Quốc đọc ra Sheng minh, người Việt Trong những lễ lớn, khi nhạc mới được dùng đến. Mở đầu bằng chuông trồng Bát Nhã. Thường thường, người dự lễ tưởng rằng chuông trống đánh từng hồi. Chính chuông trống đánh theo số chữ trong bài kệ. Bát Nhã hội (3 lần, 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Thỉnh Phật thượng đường (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Đại chúng đồng văn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Bát Nhã âm (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Phổ nguyện pháp giới (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Đẳng hữu tình (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Nhập Bát Nhã (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Ba la mật môn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông) Hồi chuông và và trống luôn đến dứt. Sau trống chuông Bát nhã, dàn Đại nhạc tấu bài Đăng đàn. Tiểu nhạc tấu bài Long ngâm, hoặc Ngũ đối thượng… Chuông gia trì, mõ gia tình và tang mở đầu cho bài tán Dương chi tịnh thủy (trong lễ Khai kinh). Trong lúc tán,nét nhạc theo câu kinh, nhạc công phải thuộc bài tán. Có khi nhạc tấu bài Lưu thủy thầy, tức là bản Lưu thủy đờn theo phong cách nhạc lễ. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA HAI CÁCH TỤNG, TÁN TRONG TRUYỀN THỐNG VIỆT 1- “Tụng” là đọc lớn, lớn hơn “đọc” và “niệm”. “Tán là ca ngợi, khen tặng. Tiếng “tán” có thể to hơn tiếng “tụng”. 2- Thanh giọng được hệ thống hóa trong khuôn khổ của một quảng tám, trong bài “tụng” cũng như bài “tán”. 3- Thang âm của bài “tụng”, có thể 3, 4 hoặc 5 (tam, tứ hoặc ngũ cung). Thang âm trong các bài tán đều là ngũ cung. 4- điệu thức Thiền và Ai đều được dùng trong tụng hoặc tán và tùy nội dung bài kinh, theo địa phương, theo bối cảnh. 5- Nét nhạtc trongcác bài “tụng” tùy theo thanh giọng của những chữ trong câu kinh và cũng tùy theo người tụng. Nét nhạc trong bài tán thường cố định theo từng bài. Người tán không thể thay đổi nét nhạc. 6- Mỗi chữ trong câu kinh chỉ được thể hiện theo một âm trong bài tụng (Style syllabique). Trong bài tán, một chữ có thể tán với nhiều âm (Style mélismatique). 7- Âm vực thâu hẹp trong bài tụng, và mở rộng trong bài tán. 8- Trong bài tụng nhịp đều trường canh, mỗi chữ trùng với một tiếng mõ… Trong bài tán, nhịp phức tạphơn. Chữ quan trọng trong câu kinh, kệ thường được xướng theo nhịp ngoại. Tang, mõ đánh theo chu kỳ (rythme cyclique). Trống đánh theo đối điểm (contrepoint). Có 3 loại : tán rơi, tán xắp, tán trạo. Nhịp theo chu kỳ khác nhau. Ngoài ra những cách “luyến láy” được quy định rất cẩn thận. Vì thời gian có hạn, nên chưa đề cặp vấn đề nhạc cụ dùng trong các lễ. Bài bản của các dàn nhạc phụ họa cũng chưa kể hết. Âm nhạc Việt Cach tụng, tán trong Phật giáo Việt |
Cập nhật ( 25/06/2008 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com