PHẬT GIÁO VỚI DÂN TỘC QUA HÌNH ẢNH VUA PHẬT TRẦN NHÂN TÔNG *PGS. TS. Nguyễn Đức Lữ Lịch sử Phật giáo thế giới cũng như Việt
Trần Nhân Tông đã đổi tên Sơn môn Yên Tử thành Trúc Lâm Thiền phái, tự mình làm đệ nhất Tổ với mục đích quy tụ ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc hướng về một thế giới thuần thiện, thuần mỹ, từ đó hóa thành tinh thần đoàn kết của cả dân tộc Đại Việt. Trần Nhân Tông được mô tả là bậc: “Tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là kim tiên đồng tử, ở hai bên tả có nốt ruồi đen có thể cáng đáng được việc lớn; ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia tám năm, thọ 51 tuổi, băng hà ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẽ vang đời trước, thực sự là vua hiền của Trần. Xong vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến siêu thoát, nhưng không phải đạo trung dung của thánh nhân”(1) 51 tuổi đời, sống tận trung với nước vị Vua – Phật này đã để lại danh thơm cho muôn đời hậu thế mãi mãi tôn vinh. Trừ 20 năm cho đời và đạo. Có thể tạm chia đôi cuộc đời của ông: 15 năm đầu dành cho đời 15 năm sau dành cho Phật giáo. Việc phân kỳ như vậy chỉ có ý nghĩa tương đối, vì khi làm vua ông đâu phải nghĩ đến đạo và khi đi tu đâu có bỏ việc đời. Lịch sử cho thấy, Việt Trần Nhân Tông với trí tuệ của minh quân, với tâm vì đạo vì đời, Nhà vua đã sáng lập dòng thiền với tinh thần và đầy đủ tố chất của các dòng thiền hiện có ở Việt Nam khi đó, nhưng lại mang tư tưởng rất mới mẻ, đó là tư tưởng “nhập thế”. Dòng thiền mới càng phát triển mạnh, khi nó phù hợp với đời sống của mọi người con đất Việt ở mọi thời đại: đó là tôn giáo gắn với dân tộc, đạo gắn với đời, nước có vinh thì đạo mới sáng. Người dân nước Việt không bao giờ quên ơn Trần Nhân Tông là người đầu tiên khai phá con đường để có thêm một phần giang sơn cho đất nước khi quyết định gả con gái yêu của mình là Công Chúa Huyền Trân (1306) để đổi lấy châu Ô, châu Rí (nay là tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Sử sách còn ghi nhận, sau khi vua vào Yên Tử tu tập, thì tháng ba năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng Trần Nhân Tông đi sang Chiêm Thành, và chính chuyến đi này ngài đã làm một nước cờ chính trị vô cùng khôn khéo và dàn xếp cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân nhà Trần để đổi lấy hai châu Ô, Rí mà không mất một mũi tên hòa đạn. Dù cho có sự phản đối của ăn sĩ: “Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Quý Mão, năm 11 (1303), Sau chuyến đi Chiêm về, Thượng hoàng mở Pháp hội vô lượng bố thí tiền bạc cho dân nghèo tại chùa Phổ Minh; tháng ba năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng tiếp một vị sư tu theo lối Du Già ở Chiêm Thành sang nước ta; tháng hai năm Ất Tỵ (1305) nước Chiêm sai Chế Bồ Đài mang phẩm vật bàn chuyện hôn sự; tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) tổ chức đám cưới cho công chúa Huyền Trân và vua Chiêm là Chế Mân; tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân mất cũng chính ngài là người sai Trần Khắc Chung đem quân lừa đưa được công chúa về tránh cảnh con gái mình phải thiêu cùng vua Chiêm. Tuy xuất gia tu hành, nhưng Trần Nhân Tông vẫn luôn toan lo cho quốc sự, canh cánh một nỗi niềm lớn lao vì dân tộc. Tính từ ngày xuống núi có buổi thuyết pháp đầu tiên giảng về Khóa Hư Lục ở chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng, Trần Nhân Tông đóng vai trò là một thiền sư nhập thế. Suốt từ năm 1301 cho đến cuối đời thái độ xuất thế và nhập thế của vua Trần Nhân Tông luôn có sự biến đổi phù hợp với thời cuộc. Có lúc ông là vị vua nhưng tâm luôn hướng về Phật, nhưng có lúc ông là tu sĩ mà luôn nghĩ đến vận nước; khi thì ông ở trên núi cao trầm tư suy ngẫm về triết lý sâu xa của Đức Phật, lúc là một vị khấc sĩ ngay trong kinh thành của nước Chiêm; thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại thừa, nhưng vua Trần Nhân Tông đã tu theo pháp giới hạnh thuộc tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật, khi là một thiền sư Lâm Tế trong buổi giảng về thiền tại chùa Sùng Nghiêm vào năm 1304 theo lời tả trong sách Thánh Đăng Ngữ Lục; có lúc ngài nhập thế như một nhà Nho, khi tính nước cờ chính trị có lợi cho dân tộc, để dành lấy châu Ô, Lý… Vua và Phật, đạo và đời, tôn giáo với dân tộc hội tụ trong một con người xuất chúng đó là Trần Nhân Tông. Trên 25 thế kỷ hiện diện trên trái đất và gần 2000 năm tồn tại ở Việt Nam, cách đây 700 năm Vua Phật Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc. Vốn là một quốc gia có truyền thống bao dung và độ lượng, hiếu hòa và đoàn kết, nên người Việt đã đón nhận những giá trị hòa hợp đại chúng, tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, phá chấp lục hòa… của Phật giáo một cách tự nhiên để tạo nên cốt cách con người Việt Nam là đoàn kết và nhân ái; hòa hiếu và bao dung. Hiếm thấy trên thế giới có một đất nước nào như Việt Nam; phải trải qua những cuộc chiến tranh triền miên và quyết liệt đến thế mà vẫn dễ dàng xếp lại quá khứ, hướng tới tương lai; xóa bỏ hận thù để cùng chung sống hòa hợp trong đại gia đình caá dân tộc bao gồm nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Giá trị tư tưởng và thái độ ứng xử của Phật giáo đã hòa quyện với truyền thống văn hóa dân tộc, trở thành di sản quý báu để lại cho hậu thế. Phật giáo là một tôn giáo truyền thống của dân tộc ta và có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của người Việt. Dĩ nhiên, tôn giáo, tín ngưỡng đều có tính lịch sử, vì vậy bản thân nó phải chuyển đổi để phù hợp với điều kiện lịch sử mới, Phật giáo đã từng là chỗ dựa tinh thần chi phối cả xã hội như các triều đại Lý – Trần. Lịch sử cũng đã minh chứng vai trò của Phật giáo góp phần làm cho nhiều triều đại thịnh trị, đất nước hùng cường và lòng dân đồng thuận. Trong gia đoạn Phật giáo là hệ tư tưởng chính thống với những tên tuổi của các vị thiền sư, pháp sư, quốc sư nổi tiếng như: Phật giáo đã từng góp phần đưa lại cho giai cấp cầm quyền một đường lối trị quốc có nhiều điểm tiến bộ, làm cho dân cường, nước thịnh, xã hội hài hòa, lòng dân đồng thuận. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, không ít nhà chùa đã là cơ sở, nơi che giấu những nhà cách mạng, đông đảo tín đồ, chức sắc Phật giáo đã đứng về phía dân tộc, tham gia tích cực vào sự nghiệp kháng chiến giành lại độc lập cho dân tộc và thống nhất cho Tổ quốc. Nhiều nhà sư đã hoạt động Trong điều kiện xã hội hiện nay, đại bộ phận tăng ni, phật tử tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội ích nước, lợi dân. Lý tưởng giải thoát của Phật giáo nhằm kiến tạo một xã hội hòa bình, an lạc, hạnh phúc, cường thịnh… không có chiến tranh, khổ đâu và thù hận đã đăng tải niềm khát khao cháy bỏng trong lòng người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Mọi tôn giáo chân chính đều có cống hiến nhất định về phương diện. Phật giáo là một trong những tôn giáo chân chính, nên khi du nhập vào Việt Có thể nói Phật giáo có vai trò to lớn trong lịch sử Việt Nam, đã góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hình thành một phong cách. Dân tộc ta phải trải qua nhiều thời kỳ lịch sử với không ít thăng trầm; khi thì viết nên những trang sử hào hùng, chói lọi; nhưng cũng có hàng thế kỷ đắm chìm trong đêm dài nô lệ. Dù giai đoạn lịch sử nào vẫn có những vị cao tăng, thiền sư, quốc sư, cùng những tăng ni, phật tử luôn suy tư về quốc sự sẵn sàng đứng ra cứu nước, hộ dân. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhiều chức sắc, tín đồ Phật giáo đã “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” trực tiếp cầm súng chiến đấu với quân thù. Trong lao động sản xuất và xây dựng đời sống mới hiện nay, không ít những tấm gương tiêu biểu trong Phật giáo góp phần làm cho quốc thái, dân an. Đã bảy thế kỷ qua, kể từ khi Vua – Phật Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, lịch sử đã ghi nhận, Phật giáo đi vào lòng dân tộc và đồng hành cùng dân tộc, thời kỳ nào nước nhà cường thịnh thì Phật giáo phồn vinh, đất nước bị nô lệ thì Phật giáo khó tránh khỏi suy tàn (“Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ dàng mở mang” (3). Sự biến động của Phật giáo việt Một ông vua đã lãnh đạo nhân dân hai lần đánh thắng quân Nguyên, sẳn sàng đoạn tuyệt với quyền lực và ngôi báu để đến với cửa Thiền đó là Trần Nhân Tông. Văn hóa Việt Tài liệu tham khảo: 1. Đại Việt sử ký toàn thư tập I, Nxb Văn học, H., 2006, tr. 450 2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I Nxb Văn học, H., 2006, tr 515 3. |
Cập nhật ( 17/04/2010 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com