NHỮNG PHO TƯỢNG CỔ XƯA CỦA KIM CHƯƠNG TỰ * Huỳnh Ngọc Trảng Pho tượng bằng gỗ thiếp vàng do vua Minh Mạng dâng cúng cho chùa Khải Tường (ở thôn Hoạt Lộc, tức khu vực trường Lê Quí Đôn – Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh) mà nay còn lưu giữa ở Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh được coi là pho tượng cổ có thể xác niên đại tương đối chính xác khoảng 1832. Tuy nhiên, từ dữ liệu trong thư tịch cổ đem đối chiếu với tư liệu điều tra, chúng ta có thể xác định các pho tượng của chùa Kim Chương, hiện tồn tại ở một ngôi chùa lá ven Đồng Tháp Mười có niên đại sớm hơn 1813. 1. Chùa cổ Kim Chương “Ở phía tây nam trấn hơn 4 dặm, về phía bắc quan lộ. Ở giữa là phật điện, trước sau có đông tây đường, sơn môn, phương trượng, kinh thất, hương viện và phạn đường chạm trổ tô sơn, tốt đẹp rộng cao. Phía bắc chùa có suối nước ngọt bốn mùa dưới đất chảy tràn ra ướt dầm cả đường đi. Năm Ất Hợi (1755) đời vua Thế Tôn năm thứ 18 (Nguyễn Phúc Khoát) có thầy tăng ở Qui Nhơn là Đạt Bản Hòa thượng đến lập chùa ở đây được vua ban cho tấm biển đề là “Kim Chương Tự”. Khi Đạt Bản mất, truyền lại cho đồ đệ là Quang Triệt. Năm Ất Vị (1775) Hòa nghĩa đạo Lý tướng quân lập vua Mục vương (Nguyễn Phúc Dương) tại đây, lại sắc ban một lần nữa. Quang Triệt mất, Quang Trạm kế, Quang Trạm mất, Quang Tuệ nối. Năm Đinh Dậu, niên hiệu Gia Long 12 (1813), Thần võ quân Phó tướng Trần Nhân Phụng vâng theo di chỉ Cao hoàng hậu ban tiền 10.000 quan để trùng tu chùa và chỉnh lý những kinh tạng, trống chuông cho thêm vẻ trang nghiêm. Hiện nay là một chùa đại bửu sát (ngôi chùa danh thắng) ở Gia Định.” (1) 2. Chú thích đôi điều 2.1 Điều lưu ý trước nhất là tên chùa: chùa Kim Chương trong Đại Nam nhất thống chí (biên soạn hồi 1865 – 1882) (2) gọi là chùa “Thiên Trường” và được sắc tứ là “Phổ Quang Thiên Sơn tự” và trong Bản đồ thành Gia Định (do Trần Văn Học vẽ năm 1815) (3) lại ghi là chùa “Kim Chung”. 2.2 Về địa điểm tọa lạc của chùa Kim Chương, “Ở phía tây nam trấn hơn 4 dặm, về phía bắc quan lộ” nay là khoảng ngã tư Nguyễn Trãi với Cống Quỳnh. Quan lộ là đường đi nối liền vị trí này về miền Đông 2.3 Lại cũng ở vùng chợ Tân Kiểng, năm 1770, có con hổ dữ “đi lạc” vào nhà dân kêu gào dự tợn. Đồn dinh phái binh lính đến vây bắt, nhưng hổ dữ nên không ai dám xúc phạm đến. Qua ngày thứ ba có “nhà sư vân du là Hồng Ân cùng đồ đệ là Trí Năng xin vào bắt hổ cho dân”. Hồng Ân bị hổ vồ chết. Trí Năng tiếp viện đánh trúng đầu hổ chết tại chỗ. Người tại chợ cho Ân là có nghĩa khí, đem an táng tại chỗ nay, rồi xây tháp (4). Nay tháp không còn nhưng còn bài vị “Cậu Ân” thờ trong đình Tân Kiểng. Dẫn lại sự kiện này từ Gia Định thành thông chí để nêu ra giả định rằng phải chăng chùa Kim Chương là nơi lui tới của các nhà sư vân du từ nơi khác đến đất Gia Định. Ở đây cũng không loại trừ, hai thầy trò Hồng Ân và Trí Năng vốn trước đó đã tá túc nơi Kim Chương tự. Ở đó, họ nghe được tin cọp dữ hại người bèn xách côn ra chợ đánh cọp. Cũng không loại trừ họ là các nhà sư đồng hương Qui Nhơn của Đạt Bản hòa thượng, tổ khai sơn của Kim Chương tự, bởi lẽ như Gia Định thành thông chí miêu tả thì Hồng Ân và Trí Năng là hai nhà sư võ nghệ cao cường, đó là cái sở đắc đặc biệt của người Bình Định. 2.4 Chùa Kim Chương liên tục được chúa ban biển sắc tứ và được Cao hoàng hậu để lại di chỉ ban một vạn quan tiền để trùng tu nhà chùa, chỉnh lý kinh tạng, trống chuông. Điều này cho thấy đây là một trong ngôi chùa công/quan tự thời đó. Việc chúa Nguyễn Phúc Khoát ban tấm biển “Kim Chương tự” cho chùa vốn bắt nguồn từ “truyền thống” của các đời chúa trước, chẳng hạn như trường hợp “Sắc tứ Hộ Quốc tự” (1734), “Sắc tứ Vạn An tự” (1710) ở Trấn Biên. Điều này cho thấy cho đến trước khi Gia Long lên ngôi, các chúa Nguyễn còn tuân thủ chủ kiến “Nho Thích song hành”, tức Nho giáo chưa thật sự được coi chính thống độc tôn. Chính vì vậy, các chúa Nguyễn khi loạn lạc, ngay cả Nguyễn Ánh khi còn bôn tẩu, đều lấy chúa làm nơi nương náu. Nguyễn Phước Thuần và Nguyễn Phước Dương chạy vào Gia Định đã tá túc ở chùa Kim Chương và chuyện phế lập do Lý Tài dàn dựng cũng diễn ra ở đây. Do vậy nên Mục vương Nguyễn Phước Dương lại sắc tứ cho chùa. Nói chung, bị quân Trịnh rồi Tây Sơn tấn công, Duệ Tông Nguyễn Phước Thuần rút chạy vào Gia Định, rồi bị áp lực của Lý Tài phải nhường ngôi chúa cho Mục vương Nguyễn Phước Dương (Tân chính vương). Rốt cục, hai năm sau, cả hai đều bị Tây Sơn bắt giết. Các phe phái chống Tây Sơn lần lượt hợp nhất dưới ngọn cờ của Nguyễn Ánh từ năm 1778. Lịch sử Gia Định bước vào thời kỳ nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn, Nho giáo cũng được hưng khởi dần thành hệ ý thức chính thống của Nguyễn Ánh trong quá trình tiến về Phú Xuân, rồi Thăng Long. 3. Nước mất cha tan Đầu năm 1858, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định và bắt đầu mở rộng phạm vi chiếm đóng. Lật lại các bản đồ chiến sự 1960 – 1861, chúng ta thấy giặc chiếm các ngôi chùa cổ để thiết lập cái gọi là “phòng tuyến chùa chiền” (lignes des pagodes) để chống lại các cuộc tấn công của quân ta. Bắt đầu từ phía tây thành Gia Định vào Chợ Lớn, phòng tuyến gồm các chùa: 1/ pagoda avancée (còn gọi là pagode Barbé, tức chùa Khải Tường; 2/ Pagode des mares; 3/ Pagode des Clohetons; 4/ Pagode Chinoise (hay Pagode Cây Mai)… Nói chung, giặc Pháp chiếm hầu hết các chùa làm đồn, rồi sau đó phá hủy cốt để xóa “dấu vết cựu trào” và cũng để gạt bỏ các “di tích ngoại đạo”. Nói cách khác, làm một công để đạt cả hai việc: xĩa bỏ dấu tích chính trị và văn hóa bản xứ/ cựu trào. Trong danh sách các chùa trên, ngôi chùa được thực dân Pháp gọi là “Pagode des mares” (chùa ở nơi có nhiều “ao vũng”, sau này gọi là thành Ô – Ma) là khu vực có chùa Kim Chương và đền Hiển Trung. Đền Hiển Trung xây dựng năm 1795, trùng tu năm 1804 để thờ các công thần đã từng theo giúp Nguyễn Ánh, trong đó đứng đầu là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Đó là một di tích cựu trào nên trước sau gì cũng cần phá bỏ – theo quan điểm của kẻ xâm lược. Còn chùa Kim Chương vốn là ngôi quan tự nên năm 1859, khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, đã được tăng chúng cấp tốc dỡ chùa và chở tượng Phật rút về “vùng căn cứ” của qun đồn điền (nay thuộc xã Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Ở đây, về sau, chùa đổi tên là chùa Hội Thọ. Trải qua bao cuộc chiến và thời gian , đến nay, chùa bảo lưu được một số bài vị Tổ và Phật tượng của Kim Chương tự. Nhờ các bài vị tổ mà chúng ta biết được đó là “hậu thân” của ngôi đại bửu sát của xứ Nam Trung hồi thế kỷ XVIII và các Phật tượng ở đây là di tích mỹ thuật của đất Gia Định được tạo tác cách nay chí ít gần 200 năm, tính từ năm 1813, Trần Nhân Phụng thừa lệnh Cao hoàng hậu trùng tu chùa Kim Chương 4. Di vật còn lại Tập hợp các di tượng ở dây có hai loại: tượng làm bằng đất sét và tượng gỗ. Tượng đất sét được tạo tác bằng kỹ thuật đắp tượng rỗng – gọi chung là tượng nê tố – khá công kỹ, từ kiểu thức lẫn đường nét hoa văn trang trí. Tuy nhiên nay không còn lành lặn, nhưng những gì còn lại cho thấy tượng được tạo tác bằng kỹ pháp chuyên nghiệp, tuân thủ nghiêm túc về qui phạm đồ tượng học Phật giáo. Chính ở chất liệu và kỹ pháp tạo hình của tượng nên đây là di tượng có giá trị lịch sử mỹ thuật thuộc loại quí hiếm cần được bảo tồn. Tượng gỗ ở đây hiện còn: 1/ Phật Thích ca sơ sinh; 2/ Địa Tạng vương Bồ Tát; 3/ Bộ tượng Thập điện Minh Vương; 4/ Bồ Đề Đạt Ma; 5/ Tiêu Diện Đại sĩ. Nhìn chung, đa phần các tượng gỗ này được tạo tác do các thợ điêu khắc gỗ có tay nghề cao, đạt được trình độ chuyên nghiệp. Điều này thể hiện rõ ở thế dáng đăng đối, trang nghiêm biểu thị oai nghi của các loại tọa thức và mặt khác, trình độ tạo tác cũng thể hiện ở việc xử lý nhân diện tượng: có chú ý đến những khác biệt về tuổi tác (già/trẻ), phong thái (trang nghiêm/thư thái)… trong mỗi tượng của bộ Thập điện Minh Vương. Ở đây chúng ta dễ nhận ra nét tĩnh lự ở tượng Bồ Đề Đạt Ma và nét sinh động của tượng Địa Tạng vương Bồ Tát được tạc trong tư thế “kỵ thú” với tọa thức thanh nhàn đế vương (Raja-lilasana) và thức thí vô úy ấn (Vitarka-mudra). Nói cách khác, việc xử lý thế dáng tượng bằng cách chọn lựa tọa thức, ấn quyết như vậy ắt phải được thực hiện bởi người nghệ nhân già dặn về tay nghề và có một tri thức định về đồ tượng học Phật giáo. Ở một mức độ dè dặt nhất định, khi so sánh với tượng Phật gỗ do vua Minh Mạng dâng cúng cho Quốc n Khải Tường tự năm 1832 (5), chúng ta có thể đồ rằng, tượng Phật gỗ của Kim Chương tự này là do nghệ nhân ở kinh đô Phú Xuân tạo tác. Đoán định này cũng căn cứ trên kết quả nghiên cứu về các thế hệ tượng gỗ ở xứ Gia Định: thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở Gia Định chưa có đội ngũ nghệ nhân tạc tượng Phật gỗ đạt trình độ chân phương và nghiêm túc như vậy. Nói chung, Kim Chương tự là ngôi chùa gánh lấy hầu hết những thăng trầm của lịch sử đất Gia Định. Lúc được coi là ngôi “đại bửu sát”, lúc chỉ còn là ngôi chùa lá nhỏ hoang tàn ở ven Đồng Tháp Mười. Giờ đây, những pho tượng còn lại ở chùa Hội Thọ là những di vật quí hiếm của lịch sử, cả lịch sử Phật giáo lẫn lịch sử mỹ thuật đất Gia Định xưa. Do đó chúng cần có được một chế độ bảo quản đặc biệt. —————————– (1) Trịnh Hòai Đức: Gia Định thành thông chí. Bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo. Nxb Văn hóa. Sài Gòn, 1972, tập hạ, tr. 88-89. (2) Đại (3) Xem B.S.E.I, T.X, No 4. (4)Trịnh Hoài Đức, sđđ, tập hạ, tr. 96-98. (5) Xem Đại |
Cập nhật ( 29/12/2008 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com