NHỮNG NGƯỜI CON GÁI LÀNH CỦA ĐỨC THẾ TÔN * MitraTweti * Tâm Diệu Phú dịch Vào năm 1976, Ni sư Karuna Dharma là người phụ nữ đầu tiên trở thành vị nữ tu trong Tăng đoàn Phật giáo ở Hoa Kỳ. Ni sư tiếp tục tạo nên những thay đổi mới mẻ cho Phật giáo qua việc đứng ra tổ chức ba kỳ Đại giới đàn kể từ năm 1994 cho nữ giới với các truyền thống thực tập khác nhau. Gần 50 vị đã trở thành nữ tu sĩ thọ giới Tỳ kheo ni trong những buổi lễ này. Ni sư Karuna sinh năm 1940, thế danh là Joyce Adele Pettingill, trong một gia đình Tin Lành ngoan đạo, cư ngụ tại Beloit, Wisconsin. Vào năm 1969, cô ghi danh tham dự một lớp học về đạo Phật, nơi đây cô đã gặp được vị thầy người Việt của mình, đó là Hòa thượng Tiến sĩ Thích Thiên Ân. Cô đã phụ giúp Hòa thượng sáng lập Thiền viện Phật giáo Quốc tế ( Vào năm 1994, Ni sư bị đứt mạch máu não nghiêm trọng, nhưng rồi cùng năm đó Ni sư nói chuyện và đi đứng lại được, cũng như thu xếp để khai mở Đại giới đàn lần thứ nhất bao gồm ba trường phái Phật giáo chánh yếu: Nguyên thủy, Phát triển, và Kim cang. Trong mỗi kỳ giới đàn, Ni sư liên lạc với các nữ tu sĩ nào chưa thọ Đại giới có ý muốn trở thành Tỳ kheo ni. Các nữ tu sĩ đã đến từ khắp nơi trên thế giới để được Ni sư truyền giới cho. Đây là một bước ngoặt lớn lao đối với nữ tu sĩ Phật giáo, nhất là ở các quốc gia theo truyền thống Nguyên thủy, như là Thái Lan, nơi mà một vị Ni có thể bị giam giữ vì đắp y áo Tỳ kheo ni. Việc truyền giới của Ni sư Karuna có tầm quan trọng bậc nhất đối với giới nữ tu theo truyền thống Tây Tạng, vì họ không được phép thọ Đai giới tại bổn tự thường trú. Vào thời xa xưa, Đức Phật đã ban giới cho cận sự nam, cận sự nữ, và sau khi Ngài thị tịch thì dòng truyền thừa Tỳ kheo ni vẫn còn được tiếp nối và truyền sang các quốc gia theo truyền thống Phát triển, như là Việt Nam, Trung Hoa và Hàn Quốc. Nhưng dòng truyền thừa này biến mất dần tại các quốc gia theo truyền thống Nguyên thủy, như Thái Lan, Tích Lan, và chưa bao giờ du nhập vào Tây Tạng. Theo truyền thống quy định là phải có đủ mặt 10 vị Tỳ kheo ni thì mới được ban Đại giới cho các nữ tu sĩ. Được biết cho đến ngày nay – không có đủ số 10 vị Tỳ kheo ni trong bất cứ một ngôi chùa nào ở Tây Tạng cả – các bậc thầy chỉ có thể truyền trao y áo màu tím của nữ tu sĩ chưa thọ Đại giới mà thôi, và các vị nữ tu đó đành phải là như vậy suốt đời. Ni sư Karuna là bậc thầy của tôi từ năm 1991, và tôi đã có những phát nguyện của một vị giáo thọ (dharma teacher) trong giáo đoàn của Ni sư vào năm 2004. Mùa hè vừa qua – sau buổi cơm trưa ở căn hộ chung cư của tôi, tại Playa del Rey, California – chúng tôi đã bàn thảo về di sản của Ni đoàn Tỳ kheo ni, vai trò đổi mới của nữ giới trong nền Phât giáo, và ảnh hưởng của sự thay đổi này đối với các dòng tu tập Tổ sư có từ lâu đời. Ni sư Kurana luôn sử dụng phương thức trực tiếp, tức thì, thẳng thắn (no-nonsense approach). Theo đúng phong cách Thiền tông, Ni sư luôn nói ra những gì mình nghĩ, và ngày trao đổi hôm đó cũng không ngoại lệ.
– Có rất ít các Tỳ kheo ni vào thời đó. Mà thật ra thì không có Tỳ kheo ni nào cả vào thời xuất gia thọ giới của tôi. Tôi không chỉ là phụ nữ Hoa Kỳ đầu tiên được xuất gia thọ Đại giới trên đất nước Hoa Kỳ, mà còn là người nữ đầu tiên trở thành Tỳ kheo ni ở xứ này. Trước thời điểm đó, bạn phải đi sang Đài Loan, Hương Cảng, hay là một nơi nào khác để được thọ Đại giới.
– Hình như sự kiện này không quan trọng lắm đối với tôi vào thời đó. Tôi cũng không nghĩ rằng đây là một cái gì đổi mới to lớn. Dường như tôi chỉ biết mình phải là Tỳ kheo ni. Tôi không thể nào giải thích được điều này. Có gì đó trong tôi cứ thôi thúc mình phải là vậy mà thôi.
– Vào năm 1994, tôi biết được một số nam thiền sinh sẵn sàng trở thành Tỳ kheo. Lúc đó, Hòa thượng Tiến sĩ Havanpola Ratanasara có mặt trong văn phòng phân khoa đại học nghiên cứu Phật giáo. Tôi đi xuống gặp sư và nói, “Thưa sư, con có một vài thiền sinh và nhận thây cũng tới lúc các thiền sinh này nên trở thành Tỳ kheo. Sư có hoan hỷ là Upajjhaya của chúng con không?”. Upajjhaya có nghĩa là vị sư truyền giới chánh (chứng minh sư). Và sư đáp lại, “Ni sư Karuna, tôi lấy làm vinh hạnh được lam chứng minh sư!”.
– Tiến sĩ Thiên Ân nói, “Cô là người Hoa Kỳ, và đây là nền Phật giáo tại Hoa Kỳ. Chúng ta không nên chỉ dành riêng buổi lê truyền giới cho một trường phái nào đó mà thôi”. Trên thực tế, dù sao chăng nữa cũng không có nhiều người Việt lắm ở gần đó vào thời ấy. Tiến sĩ nói, “Tôi sẽ mời quý thầy cô với các truyền thống Phật giáo khác nhau”. Tiến sĩ đã làm như thế, và tất cả quý thầy cô đã về tham dự buổi lễ truyền giới. Và tôi tiếp tục gìn giữ truyền thống này bởi tôi nghĩ nó là một phương hướng thật tốt đẹp. Như Suto khẳng định, “Chúng ta không truyền giới cho các giới tử để tuân thủ theo một Vinaya nào đó (bộ Luật tạng gồm các giới luật và thanh quy dành cho đời sống Tăng Ni chúng). Chúng ta cũng không truyền giới cho các giới tử để thuộc về một trường phái Phật giáo nào đó. Mà chúng ta chỉ truyền giới cho các giới tử để trở thành nam tu sĩ và nữ tu sĩ thế thôi, chấm hết”.
– Không hẳn chỉ vậy thôi, mà còn tại vì đó là phương thức đã có mặt ngay từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thực ra đã không có sự phân chia như thế, chẳng hạn như các tông phái, vào thời Đức Phật còn tại thế.
– Khi tôi truyền giới thì các giới tử đắp y áo của tông phái mình. Thế nên, nếu bạn là người Tây Tạng thì đắp y áo Tây Tạng, nếu bạn là người Việt thì đắp y áo đó, và nếu bạn thuộc Nguyên thủy thì đắp y áo Nguyên thủy. Đó là vì sao lễ thọ giới của chúng ta trông thật khác với các nơi khác. Trước kỳ lễ thọ giới trong năm 2004, tôi gửi cho mỗi vị xin thọ giới một chương trình, bao gồm thông báo và tờ thỏa thuận. Để được tham dự buổi lễ thọ giới thì một vị Ni phải viết thư và xin thầy mình ký tên vào tờ thỏa thuận rằng mình sẵn sàng thọ giới cũng như vị thầy sẽ chỉ dạy cho mình ít nhất là 5 năm sau đó. Do bởi trong 5 năm đầu, bạn không được tự ý đi đâu hay làm gì. Theo như bộ Luật tạng, bạn phải chịu dưới sự giám sát của thầy mình. Tất cả các vị thầy phải ký tờ thỏa thuận đó. Chúng ta tuân giữ theo tờ thỏa thuận một cách nghiêm chỉnh, dễ làm, dễ hiểu. Sau khi có được tờ thỏa thuận với chữ ký và đi sang
– Đúng là một sự thay đổi triệt để. Tiến sĩ Thiên Ân sống ở Nhật Bổn trong bảy năm, và Tiến sĩ yêu thích nền văn hóa Nhật. Hầu hết Tăng sĩ ở Nhật lập gia thất. Họ không thọ Cụ túc giới của một vị Tỳ kheo, mà chỉ thọ nhận 25 giới đặc biệt của các vị giáo thọ hướng dẫn Thiền tông (Zen priests). Đó là những gì mà cô và các sư anh của cô đã thọ nhận thay vì 250 giới cho các vị Tỳ kheo và 348 giơi cho các vị Tỳ kheo ni. Vị giáo thọ (dharma teacher) đối với tôi thì tương đương với “Tỳ kheo” hay “Tỳ kheo ni”. Những vị giáo thọ không chỉ là cư sĩ bởi vì các vị này đã được đào luyện giống như là các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.
– Nó còn tùy thuộc vào chủ đích của bạn là gì trong việc trở thành một vị tu sĩ. Nếu bạn muốn làm một vị tu sĩ chân chánh, thì có lẽ bạn nên thọ nhận đầy đủ 348 giới. Nhưng nếu bạn muốn theo kiểu một nhà truyền giáo nhiều hơn, ra ngoài tiếp xúc với quần chúng, thì tốt nhất là bạn thọ nhận 25 giới. – Tôi không hình dung được là những vị giáo thọ có được công nhận ở khắp nơi chăng. Một vài người bạn Tích Lan của tôi nói là chúng ta đã thêm vào một cấp bậc thọ giới. Nhưng họ nhìn nhận khi tôi nói cho họ biết là tôi xem những vị giáo thọ ngang hàng với các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Đó là cách nhìn của tôi mà cũng là cách nhìn của Tiến sĩ Thiên Ân. Tôi thật không biết những người khác có lối nhìn thế nào. Nói chung là Ni sư có nghĩ giới Tăng lữ ở các quốc gia Phật giáo xem trọng đạo Phật Hoa Kỳ không? – Tôi nghĩ là có. Nhiều người Á châu, khi mới lần đầu gặp gỡ những người Hoa Kỳ, không mường tượng được đạo Phật ở Hoa Kỳ. Họ cũng không có ý niệm nào về tác phẩm Phật pháp kỳ diệu được viết bằng Anh ngữ. Trong một chừng mực nào đó, họ nghĩ là chúng ta không hiểu biết đạo Phật theo cách thức mà họ hiểu biết, nhưng khi họ bắt đầu biết được là chúng ta thực sự hiểu biết như họ, thì họ thay đổi thái độ. Xin kể cho con biết về hội nghị Phật giáo mà Ni sư mới vừa tham dự. Mục tiêu của hội nghị là gì? Tôi đã tham dự Hội nghị Quốc tế Sakyadhita về Nữ giới theo Phật giáo (Sakyadhita International Conference on Buddhist Women) ở thành phố
– Đúng vậy. Tôi đã tham dự lần đầu vào năm 1987, được tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Khi tôi nhận được thông báo về hội nghị, tôi nghĩ tham dư hội nghị quan trọng hơn là tham dự Hội Ái hữu Phật tử Thế giới (World Fellowship of Buddhists) bởi vì chưa từng có một hội nghị nào cho nữ giới theo Phật giáo trước đó. Vào ngay ngày cuối của hội nghị, chúng tôi nghĩ cách lam sao cho hội nghị được tổ chức thường xuyên và có mặt lâu dài. Chúng tôi đã biểu quyết lấy tên Sakyadhita vì nó có nghĩa là “những người con gái lành của Đức Thế Tôn” (daughters of the Buddha). Nữ tu sĩ Tây Tạng, Karma Lekshe Tsomo, và tôi được chọn cùng làm hội trưởng (copresidents) vào thời gian đó. Còn việc tạo cơ hội cho nữ giới theo Phật giáo ngồi lại với nhau có tầm mức quan trọng ra sao? – Trước hết, hội nghị đã mở rộng tầm mắt của phu nữ Tây Tạng vì trước đó họ không hình dung nổi là phụ nữ Tây phương được truyền thụ Cụ túc giới cũng như có quá nhiều người Tây phương chúng tôi tại hội nghị đó. Họ cũng trở nên hân hoan mừng rỡ khi nhìn thấy các Tỳ kheo ni người Hoa Kỳ làm chủ được đời mình vì họ chưa từng thấy sự việc như thế bao giờ. Vẫn còn chưa có các Tỳ kheo ni trong Tăng đoàn Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma có đến tham dự và diễn thuyết. Ngài rất ủng hộ nữ giới, và co nhiều nữ tu sĩ cùng đi tham dự hội nghị với Ngài. Năm đó hội nghị được tổ chức bằng hai thứ tiếng, Anh ngữ và Tạng ngữ.
– Ơ Hoa Kỳ, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni hoàn toàn đồng đẳng như nhau. Tại tu viện Thiền Tào Động (Soto Zen Monastery) tọa lạc trên trái núi Shasta, hai phần ba là Ni, và một phần là Tăng. Họ gọi vị nào cũng là Tăng (monk), bất kể họ thuộc giới tính nào. Họ cũng đắp y áo như nhau, và làm công việc như nhau nếu có đủ khả năng.
Xin cảm ơn Ni sư.
|
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com