Phật Giáo Bạc Liêu
Thứ Năm, Tháng Ba 23, 2023
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Ban Chứng Minh
    • Ban trị sự
    • Các ban trực thuộc
  • Tin tức – Phật sự
  • Từ thiện xã hội
  • Lịch sử – văn hóa
    • Văn hoá phật giáo
    • Lịch sử văn hoá
  • Nhân vật – Sự kiện
    • Nhân vật
    • Sự kiện
  • Phật học
    • Tự viện
  • Trung cấp phật học
No Result
View All Result
Phật Giáo Bạc Liêu
No Result
View All Result

Nhị thập tứ hiếu (Lý Văn Phức)

Phạm Hảo Đăng bởi Phạm Hảo
5 năm trước
in Lịch sử - văn hóa
A A
0

NHỊ THẬP TỨ HIẾU

* Lý Văn Phức

Cụ Lý văn Phức tự là Lân Chi, hiệu là Khắc Trai, người làng Hồ Khẩu, hiệu Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội ngày xưa, thuộc Đại Lý Hoàn Long, ngoại thành Hà Nội. Cụ là bậc túc nho, văn học uyên bác, đỗ cử nhân khoa Kỷ Mão triều Gia Long thứ 18 (1819) , làm quan luôn ba triều : Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Khoảng năm Tân Sửu, Thiệu Trị nguyên niên (1841), sung chức chánh sứ sang Tàu và nhiều lần được cử đi phái bộ các nước lân-cận với nước ta. Mỗi lần đi đâu về, cụ đều có soạn thành bút ký hay thi tập. Năm Canh Dần, Minh Mệnh thứ 11 (1830), đi phái bộ Tiểu Tây Dương, cụ soạn tập "Tây hành kiến văn lục hay Kỷ lược". Hai năm Quý Tỵ và Giáp Ngọ, Minh Mệnh thứ 14, 15 đi phái bộ Tân Gia Ba (Singapour); Lữ Tống (Lucon) Quảng Đông, cụ soạn hai tập "Việt Hành Ngâm hoặc Thi Thảo" và "Việt Hành Tục Ngâm". Khi đi Áo Môn ( Macao), cụ soạn tập "Kinh Hải Tục Ngâm". Ngoài ra cụ còn có mấy bộ bằng quốc âm: "Phụ Châm Tiện Lãm", "Tự Thuật Ký", "Bất Phong Lưu Truyện", "Sứ Trình Tiện Lãm Khúc" và bản Nhị thập tứ hiếu này.

 

Lược truyện 24 hiếu tử

 

1.- NGU THUẤN

Vua Thuấn họ Diêu, tên hiệu là Thuấn, quốc hiệu là Đại Ngu, cha là Cổ Tẩu, (có mắt cũng như mù, vì không biết kẻ hay người dở, người đời bấy giờ mới tặng cho tên là Cổ Tẩu), mẹ đẻ mất sớm, mẹ kế là người ương gàn, em (cùng cha khác mẹ) là Tượng, tính lại hỗn xược, cha và mẹ kế cùng em ngày ngày chỉ kiếm cách để giết ngài đi; nhưng ngài vẫn một lòng trên hiếu với cha mẹ, dưới hòa cùng em, lòng hiếu cảm động đến trời, như khi cha ngài bắt ngài cày ruộng một mình ở núi Lịch Sơn, thì voi về cày ruộng, chim về nhặt cỏ. Khi sai ngài dánh cá ở hồ Lôi Trạch thì gió lặng sóng yên. Vua Nghiêu nghe tiếng, gọi gả hai con gái cho ngài và truyền ngôi cho ngài. Khi ngài làm vua, trong 18 năm chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam Phong mà thiên Hạ rất thái bình thịnh trị.

 

– Thơ:

 

Đội đội canh điền tượng,
Phân phân vân thảo cầm.
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm động thiên tâm.

– Giải nghĩa đen:

Hàng đàn voi về cày ruộng,
Hàng bày chim đến nhặt cỏ.
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Lòng hiếu thảo động đến trời.


– Dịch nôm:

Voi về cày ruộng hàng bày,
Chim về nhặt cỏ hàng ngàn không ngơi.
Giúp vua Nghiêu, nối ngôi trời,
Cho hay hiếu cảm động vời cao xanh.

2.- VĂN ĐẾ
Vua Văn Đế nhà Hán, tên là Hằng, con thứ vua Hán Cao Tổ, em vua Huệ Đế, mẹ là Bạc Hậu (vợ lẽ vua Hán Cao Tổ), trước phong là Đại Vương, tức là thân vương ở đất Đại bên ngoài, tính rất hiếu, sau Huệ Đế chết không có con nối nghiệp, các quan trong triều đón ngài về làm vua. Khi ngài đã làm vua rồi, Bạc Hậu bị ốm trong ba năm trời, ngài lúc nào cũng đóng mũ áo đai cân đứng hầu mẹ, thức suốt đêm không dám ngủ, thuốc thang dâng đến, ngài tự nếm trước rồi mới dâng cho mẹ xơi, vì sợ có thuốc độc. Dân gian thấy ngài hiếu thảo như thế, ai cũng bắt chước, mọi người đều hiếu thảo cả, thiên hạ rất thịnh trị, không kém gì đời tam đại (nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu) ngày xưa.

– Thơ:

Nhân hiếu lâm thiên hạ,
Nguy nguy quán bách vương.
Hán đình sự hiền mẫu,
Thang dược tất tiên thường.

– Giải nghĩa đen:

Lấy đạo nhân hiếu dạy bảo thiên hạ,
Công cao hơn cả trăm vua khác.
Phụng dưỡng mẹ hiền ở công đình nhà Hán,
Thuốc thang phải tự nếm trước.

– Dịch nôm:

Đem lòng nhân hiếu dạy dân,
So trăm vua khác có phần lại hơn.
Khi hầu mẹ ốm thuốc thang,
Tự mình nếm trước, dưới màn mới dâng.

3.- TĂNG TỬ
Tăng Tử tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ấp Vũ Thành nước Lỗ, sinh vào thời Xuân Thu, là học trò vào bậc giỏi của đức Khổng Tử, sau được liệt vào bậc tứ phối (bốn ông phối hưởng với đức Khổng Tử). Ông thờ cha mẹ rất hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai, thì ông vâng theo lời mà cho người ấy. Một hôm ông đi vào rừng kiếm củi vắng, ở nhà có khách đến chơi, mẹ ông không biết làm thế nào cho ông về ngay, bèn cắn ngón tay mình, để cho động lòng con, quả nhiên ông ở trong rừng thấy quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi về ngay.

– Thơ

Mẫu chỉ tài phương khiết,
Nhi tâm thống bất căm.
Phụ tận quy vị vãn,
Cốt nhục chí tình thâm.

– Giải nghĩa đen:

Mẹ vừa cắn ngón tay,
Con thấy đau trong dạ.
Vội vàng đội củi về,
Tình cốt nhục cảm ứng chóng như thế.

– Dịch nôm:

Mong con vừa cắn ngón tay,
Trong rừng con bỗng dạ này quặn đau.
Vội vàng đội củi về mau,
Cho hay cốt nhục tình sâu lạ thường.

4.- MẪN TỬ KHIÊN
Tên chữ là Tổn, sinh vào đời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, mẹ ông mất sớm, cha ông lấy người vợ sau (tức là mẹ kế) sinh được hai con. Mẹ kế đối với ông rất cay nghiệt, nhưng ông vẫn thờ cha và thờ mẹ kế rất hiếu . Mùa rét, mẹ kế cho hai con mình mặc áo bông dày, cho ông mặc áo bằng hoa lau, chứ không có bông. Ông tuy thấy không đủ ấm, nhưng kgông hề nói gì. Một hôm ông đẩy xe cho cha đi chơi, vì rét quá cóng tay, rời tay xe ra. Cha ông suy xét mãi mới biết là ông bị mẹ kế để cho mặc rét, cha ông tức lắm định đuổi ngay người vợ kế đi, ông khóc và cố kêu van với cha, xin đừng đuổi mẹ kế, vì rằng: có mẹ kế thì chỉ một mình ông bị rét thôi, nếu đuổi mẹ kế đi thì cả ba anh em ông cùng phải khổ sở cả. Cha ông nghe lời ông không bỏ người vợ kế nữa. Người mẹ kế nghe biết chuyện, về sau đối đãi với ông rất tốt, thành ra một người mẹ hiền.

– Thơ:

Mẫn thị hữu hiền lang,
Hà tằng oán vãn nương.
Đường tiền lưu mẫu tại,
Tam tử miễn phong sương.

– Giải nghĩa đen:

Nhà họ Mẫn có người con hiền,
Không bao giờ oán trách mẹ sau,
Trước mặt bố xin cho mẹ sau ở lại,
Để ba con khỏi phải khổ sở.

– Dịch nôm:

Tử Khiên hiếu thảo tình sâu,
Không hề oán trách mẹ sau nồng nàn.
Xin cha chớ dứt dây loan,
Cho con khỏi phải cơ hàn cả ba.

(Còn tiếp)

– Bài Mẫn Tử Khiên còn có một bài thơ thể song thất lục bát như sau:

Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẻ đã lâu.
Thừ cha sớm viếng khuya hầu,
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo,
Hai em thời áo kép mền bông.
Chẳng thương chút phận long đong,
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.
Khi cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy rơi tay.
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.
Gạt nước mắt chân quỳ, miệng gởi,
Lạy cha xin xét lại nguồn cơn.
Mẹ còn chịu một thân đơn,
Mẹ đi luống để cơ hàn cả ba.
Cha nghe nói xót xa giọt tủi,
Mẹ nghe rồi cũng đổi lòng xưa.
Cho hay hiếu cảm nên chừa,
Thấm lâu như đá chẳng từ lọ ai

 

5.- TỬ LỘ
Tử Lộ tên là Trọng Do, người ấp Biện, nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò đức Khổng Tử. Thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, thường phải đi đội gạo đường xa trăm dặm về nuôi cha mẹ; bữa ăn không có thức ăn, phải ra vườn hái rau dền, rau muống về nấu canh cho cha mẹ ăn. Sau cha mẹ ông chết cả, ông mới đi sang nước Sở, được vua nước Sở dùng, cho làm quan sang, bổng lộc nhiều. Nghĩ đến công cha mẹ, ông lấy làm đau tủi, muốn lại được đi đội gạo và nấu canh rau để phụng dưỡng cha mẹ, thì không được nữa.

– Thơ:

Phụ mễ cung cam chỉ,
Ninh từ bách lý lao.
Thân hoàn thân dĩ một,
Do niệm cựu cù lao.

– Giải nghĩa đen:

Đội gạo để cung cấp cha mẹ miếng ngọt miếng bùi,
Không nề hà đường xa trăm dặm,
Đến lúc được sung sướng thì cha mẹ chết rồi,
Vẫn nhớ đến công khó nhọc của cha mẹ.

– Dịch nôm:

Dốc lòng phụng dưỡng mẹ cha,
Đường đi đội gạo dù xa cũng gần.
Đến khi nhẹ bước thanh vân,
Muốn mong báo đáp, hai thân đâu còn?

6.- DIỄM TỬ
Diễm Tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ rất hiếu; cha mẹ tuổi già, mắt lòa, thèm uống sữa hươu, Diễm Tử lấy da hươu khô là áo mặc, giả làm hươu con, vào rừng lân la đến gần những con hươu mẹ để vắt lấy sữa. Một hôm gặp bọn người đi săn, tưởng là hươu con, dương cung toan bắn, Diễm Tử vội bỏ lốt hươu con ra và bày tỏ cho người đi săn biết, người ấy mới thôi không bắn nữa.

– Thơ:

Thân lão tư lộc nhũ,
Thân phi lộc bì y.
Nhược bất cao thanh ngữ,
Sơn trung đới tiến quy.

– Giải nghĩa đen:

Cha mẹ già thèm uống sữa hươu,
Mình mặc áo da hươu.
Nếu không vội kêu to lên,
Thì bị trúng phải tên bắn ở trong núi.

– Dịch nôm:

Sữa hươu tuổi tác ước ao,
Da hươu đội lốt lần vào rừng xanh.
Gặp người nếu chẳng kêu nhanh,
Ắt là gặp sự chẳng lành xảy ra.

7.- LÃO LAI TỬ
Lão Lai Tử người nước Sở, sinh vào đời Xuân Thu, đã 70 tuổi hãy còn cha mẹ. Ông thờ cha mẹ rất hiếu. Không muốn để cho cha mẹ thấy ông đã già mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, nhởn nhơ múa hát trước mặt cha mẹ, lại có khi ông bưng nước hầu cha mẹ, ông giả cách ngã, rồi khóc oa oa, làm như đứa trẻ lên 7 lên 3 vậy. Ý ông là cốt để làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng.

– Thơ:

Hý vũ học kiều sy,
Xuân phong động thái y.
Song thân khai khẩu tiếu,
Hỷ sắc mã đình vi.

– Giải nghĩa đen:

Chơi đùa như thể trẻ em,
Gió xuân lay động áo hoa sặc sỡ.
Hai cha mẹ cùng mở miệng cười,
Cảnh vui đầy cả cửa nhà.

– Dịch nôm:

Chơi đùa học lối trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa, phất phơ áo mùi.
Hai thân cùng nở nụ cười,
Gió xuân đầm ấm, cảnh vui đầy nhà.

8.- ĐỔNG VĨNH
Đổng Vĩnh sinh vào đời Hậu Hán, nhà nghèo, tính rất hiếu, cha chết không có tiền chôn cất, phải đến một nhà giàu ở làng khác, vay tiền công dệt non, hẹn sau sẽ dệt trả 300 tấm lụa. Khi vay được tiền về chôn cất cha xong rồi, định đi đến nhà giàu để dệt trả lụa, đi được nửa đường, thì gặp một người con gái xin kết làm vợ chồng, nhưng giao hẹn hãy cùng đi đến nhà giàu kia dệt lụa trả nợ đã, rồi mới về ăn ở cùng nhau. Khi đã dệt đủ 300 tấm lụa, trả nợ xong rồi, hai người cùng về, đến chỗ gặp nhau khi trước, thì người con gái ấy biến mất. Vì Đổng Vĩnh có lòng hiếu thảo cảm động đến trời. nên Trời sai tiên nữ xuống giúp.

– Thơ:

Táng phụ thải khổng phương,
Tiên cô lộ thượng phùng.
Chức khiêm thường trái chủ,
Hiếu cảm động phương khung.

– Giải nghĩa đen:

Vay tiền để chôn cất cha,
Giữa đường gặp nàng tiên,
Dệt lụa trả chủ nợ,
Lòng hiếu cảm động đến trời.

– Dịch nôm:

Vay tiền lo liệu tang cha,
Giữa đường gặp ả tiên nga giúp cùng,
Dệt lụa đủ, trả nợ xong,
Cho hay hiếu thảo động lòng trời xanh

 

9.- QUÁCH CỰ
Quách Cự sinh vào đời nhà Hán, cửa nhà sa sút, thờ mẹ rất hiếu. Hai vợ chồng mới sinh được một đứa con lên 3 tuổi, ông thường thấy bữa ăn mẹ ông không dám ăn no, cứ bớt lại để phần cho con mình ăn, vợ chồng bàn nhau rằng : vợ chồng mình đương thì sinh đẻ, mẹ già chỉ có một lần, đã chẳng phụng dưỡng mẹ được sung túc, lại để cho con mình xẻ ngọt chia bùi của mẹ, thì không phải đạo. Bèn bàn nhau đào hố đem chôn đứa con đi; vợ cũng nghe theo lời ông. Khi đào hố mới được đâu độ 3 thước, thì thấy có một hũ vàng, trên có chữ đề là: "hiếu tử Quách Cự, hoàng kim nhất hũ, dụng dĩ tứ nhữ". Nghĩa là: "người con hiếu là Quách Cự, một hũ vàng đây để cho mày ". Hai vợ chồng lại đem con về.

– Thơ:

Quách Cự tư cung cấp,
Mai nhi nguyện mẫu tồn.
Hoàng kim thiên sở tứ,
Quang thái chiếu hàn môn.

– Giải nghĩa đen:

Quách Cự chỉ nghĩ việc phụng dưỡng mẹ,
Chôn con đi mong cho mẹ sống.
Trời cho được hũ vàng,
Đương nghèo được nên giàu có.

– Dịch nôm:

Nhà nghèo hiếu thảo dốc lòng,
Chôn con nuôi mẹ vợ chồng bàn nhau.
Hũ vàng dành dưới hố sâu,
Trời cho phút chốc nên giàu lạ thay.

10.- KHƯƠNG THI
Khương Thi sinh vào đời nhà Hán, vợ là Bàng thị; hai vợ chồng đều hiếu thảo cả. Mẹ chồng muốn uống nước sông, Bàng thị hàng ngày đi gánh nước ở sông xa về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố đi tìm kiếm cho được đủ thứ đem về. Lại sợ mẹ có một mình buồn, thường thường mời các bà già ở hàng xóm sang chơi với mẹ cho vui. Sau tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra, đúng như vị nước sông và ở suối ấy hàng ngày lại có hai con cá chép, đủ dùng làm gỏi ghém. Từ đấy vợ chồng không phải đi quảy nước sông và đi kiếm cá nữa.

– Thơ:

Á trắc cam tuyền xuất,
Thất triêu song lý ngư.
Tử năng tri sự mẫu,
Phụ cánh hiếu ư cô.

– Giải nghĩa đen:

Bên nhà có suối nước ngọt chảy ra,
Mỗi ngày có hai con cá chép.
Con trai đã biết đạo thờ mẹ,
Nàng dâu lại hiếu với mẹ chồng.

– Dịch nôm:

Bỗng đâu suối chảy bên nhà,
Ngày đôi cá chép nhảy ra lệ thường.
Chồng mà lấy hiếu làm cương,
Ắt là vợ phải noi gương theo chồng.

11.- THÁI THUẬN
Thái Thuận sinh vào đời nhà Hán, nhà nghèo, mồ côi cha từ thủa bé, thờ mẹ rất có hiếu. Bị năm loạn lạc kém đói, phải đi vào rừng tìm kiếm những quả dâu chín đem về ăn cho đỡ đói. Tìm được quả nào chín đem để ra một bên. Gặp người tướng giặc Xích My đi qua, trông thấy hỏi: "Vì cớ gì để làm hai nơi như thế?" Ông trả lời: "Quả nào chín đen thì ngọt, để riêng để biếu mẹ tôi, còn quả nào đỏ thì chua, để riêng tôi ăn". Người tướng giặc khen là có hiếu, bèn truyền quân lấy ra một thúng gạo và một cái đùi trâu để tặng ông.

– Thơ:

Hắc thầm phụng huyên vy,
Đề cơ lệ mãn y.
Xích My tri hiếu thuận,
Đẩu mễ tặng quân quy.

– Giải nghĩa đen:

Quả dâu chín đen để biếu mẹ,
Bụng đói nước mắt chảy thấm cả áo.
Giặc Xích My biết là người có hiếu,
Tặng cho thúng gạo mang về.

– Dịch nôm:

Quả dâu đen, dành mẹ xơi,
Lòng cam chịu đói, lệ rơi thấm bào.
Xích My giặc ấy cũng hào,
Tặng cho gạo trắng một bao đem về.

12.- ĐINH LAN
Đinh Lan sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ lúc bé, đến khi lớn lên, nhớ ơn cha mẹ thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để phụng thờ, ngày thì dâng hai bữa cơm, tối thì sửa soạn chăn gối, hầu hạ chăm nom như lúc cha mẹ còn sống vậy. Phụng thờ như thế hằng mấy mươi năm, sau người vợ ông sinh ra nản lòng, có một hôm người vợ lấy kim châm vào kẽ tay tượng gỗ, tức thì có máu tươi chảy ra. Đến bữa cơm, ông bưng cơm vào cúng, thấy tượng gỗ rớm rớm nước mắt, ông xét kỹ mới biết là vì vợ ông châm kim vào tay tượng gỗ, ông tức thì đuổi bỏ ngay người vợ ấy đi.

– Thơ:

Khắc mộc vi phụ mẫu,
Hình dưng tại nhật thần.
Ký ngôn chư tứ điệt,
Các yếu hiếu song thân.

– Giải nghĩa đen:

Tạc gỗ làm tượng cha mẹ,
Thờ phượng giống như lúc còn sống.
Nhắn bảo các con cháu,
Ai ai cũng nên hiếu với cha mẹ cả.

– Dịch nôm:

Tạc hình cha mẹ như y,
Đem ngày thờ phụng tựa khi sinh thời,
Nhắn khuyên con trẻ mấy lời,
Làm con phải hiếu, ai ơi ghi lòng.

 

13.- LỤC TÍCH
Lục Tích sinh vào đời Đông Hán, mới lên 6 tuổi, đã biết hiếu thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu giang với Viên Thuật; Thuật làm tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy dấu 2 quả bỏ vào tay áo, khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao lấy quít dấu như thế?" Tích trả lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân thấy quít ngon, dấu đi vài quả đem về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người có hiếu.

– Thơ:

Hiếu đễ giai thiên tính,
Nhân gian lục tuế nhi.
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.

– Giải nghĩa đen:

Lòng hiếu đễ do trời phú tính cho,
Đứa trẻ con lên 6 tuổi trong thế gian này.
Dấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng đáng lấy làm lạ.

– Dịch nôm:

Cho hay phú giữ thiên chân,
Lên sáu tuổi, biết hiếu thân mới kỳ,.
Quít ngon mấy quả dấu đi,
Đem về biếu mẹ, những thì ước ao.

14.- GIANG CÁCH
Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn lạc, cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau, nay bị bắt đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ bì, rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn lạc.

– Thơ:

Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần.
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.

– Giải nghĩa đen:

Cõng mẹ đi tránh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn luôn.
Kêu van đều được tha,
Cố sức làm thuê để nuôi mẹ.

– Dịch nôm:

Tránh nàn cõng mẹ gian truân,
Giữa đường gặp giặc toan phần bắt đi,
Giãi tình van lạy nằn nì,
Thoát vòng loạn lạc, tới khi yên lành.

15.- HOÀNG HƯƠNG
Hoàng Hương sinh vào đời Đông Hán, năm lên chín tuổi mẹ chết, thương khóc thảm thiết, trong làng ai cũng khen là người có hiếu. Ở với cha, sớm khuya hầu hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì nằm ủ vào chăn chiếu của cha để lấy hơi nóng của mình vào chăn chiếu cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng, vì thế cha lúc nào cũng được vui vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa hè. Quan thái thú quận ấy thấy Hương là người hiếu thảo, làm sớ tâu lên vua Hán ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người con hiếu hạnh.

– Thơ:

Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương.
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương.

– Giải nghĩa đen:

Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối.
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Nghìn xưa chỉ có một Hoàng Hương mà thôi.

– Dịch nôm:

Đông thì ủ ấm chiếu chăn,
Hè thì quạt mát mọi phần nồng oi.
Trẻ thơ đã biết hiếu rồi,
Nghìn thu chỉ có một người không hai.

16.- VƯƠNG THÔI
Vương Thôi người nước Ngụy (đời Tam quốc) cha ông làm quan triều Ngụy, sau Tây Tấn diệt Ngụy, thống nhất thiên hạ, cha ông bị Tây Tấn giết hại, ông thương xót quá, phục ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước mắt của ông chảy ra thấm xuống gốc cây trắc bên mồ tươi lại. Cả đời ông không bao giờ ngồi ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây Tấn ở về phương tây ), để tỏ ý ông không làm tôi nhà Tây Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra áp mồ và khấn rằng: "Có con ở đây rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây Tấn thường mời ra làm quan, ông nhất định không chịu ra, ở nhà mở trường dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho học trò, đến thiên Lục Nga trong Kinh Thi có câu rằng : "phụ hề sinh ngã" thì ông lại thương cha chảy nước mắt khóc. Vì thế, học trò cũng cảm động, bỏ thiên Lục Nga không dám đọc đến nữa,

– Thơ:

Từ mẫu phạ văn lôi,
Băng hồn túc dạ đài.
Át hương thời nhất chấn,
Đáo mộ nhiễu thiên hồi.

– Giải nghĩa đen:

Mẹ hiền sợ nghe sấm,
Hồn thơm nằm dưới suối vàng.
Khi thấy có tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ di quanh nghìn lần.

– Dịch nôm:

Mẹ xưa tính sợ sấm vang,
Hồn thơm ở dưới suối vàng những lo.
Mỗi khi mưa gió sấm to,
Thân ra ấp mộ quanh co nghìn vàng.

 

17.- NGÔ MÃNH
Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên 8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt không ngủ được, ông cởi trần nằm cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ chăng?

– Thơ:

Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy.
Tứ cừ bão cao huyết,
Miễn sử nhập thân vi.

– Giải nghĩa đen:

Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua.
Cho nó đốt no máu của mình,
Để nó khỏi đến chỗ cha mẹ nằm.

– Dịch nôm:

Đêm hè lắm muỗi không màn,
Tha hồ muỗi đến hàng đàn vo ve.
Trần mình cho muỗi no nê,
Hai thân được ổn giấc hòe là hơn.

18.- VƯƠNG TƯỜNG
Vương Tường sinh vào đời nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xui dục, làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên váng nước, để tìm cá, bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu thảo như thế, sau cha và mẹ kế ông cảm động, lại yêu quý ông lắm.

– Thơ:

Kế mẫu nhân gian hữu,
Vương Tường thiên hạ vô.
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô.

– Giải nghĩa đen:

Mẹ kế thì nhân gian thường có,
Hiếu như Vương Tường thì thiên hạ không có ai.
Đến bây giờ ở trên sông,
Chả có ai nằm trần mình trên váng nước cả.

– Dịch nôm:

Nhân gian mẹ kế là thường,
Lòng con hiếu tựa Vương Tường có đâu!
Gẫm xem từ đấy về sau,
Thân nằm trên váng nước sâu mấy người.

19.- DƯƠNG HƯƠNG
Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu, cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy sổ đến định vồ cha ông, ông tay không, quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự cả.

– Thơ:

Thâm sơn phùng bạch ngạch,
Nỗ lực bác tinh phong.
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung.

– Giải nghĩa đen:

Chốn rừng sâu gặp con hổ trắng má,
Cố sức đánh đuổi giống hôi tanh.
Cha con đều vô sự cả,
Khỏi được tai nạn bị hổ ăn thịt.

– Dịch nôm:

Giữa rừng gặp cọp tay không,
Dù rằng thú dữ quyết xông đánh liền.
Cha con đều được bình yên,
Miệng hùm đã thoát đoàn viên cùng về.

20.- MẠNH TÔNG
Mạnh Tông người ở Giang Hạ, về đời Tam Quốc, mồ côi cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm được măng, ông lần vào rừng tre, một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy giò măng mọc ở dưới đất lên, ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi mẹ khỏi ốm.

– Thơ:

Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc sổ can.
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an.

– Giải nghĩa đen:

Ngồi khóc trong khi gió bấc rét nặng.
Lèo tèo có mấy cây tre.
Phút chốc măng mùa đông mọc ra,
Ý trời cho mẹ được khỏi bệnh.

– Dịch nôm:

Mùa đông gió bấc lạnh lùng,
Một mình sùi sụt trong vùng rừng tre.
Bỗng đâu măng mọc đem về,
Mẹ xơi, bệnh đã mọi bề tiêu tan.

 

21.- SƯU KIM LÂU
Kim Lâu người nước Tề, tính rất hiếu, được bổ làm thái thú ở quận Bình Lăng, đến nhận chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy ra như tắm, ông biết là ở nhà có việc chẳng lành, bèn từ chức về quê ; khi về đến nhà thì cha bị ốm đã hai ngày, ông thấy thầy thuốc nói rằng: "Những người ốm mà phân đắng thì dễ chữa, không đáng lo ngại, người nào ốm mà phân ngọt, ông lấy làm lo ngại, cứ đêm đêm ba lần đốt hương hướng về sao Bắc Đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha. Sau nằm thấy có người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: "Sắc trời cho bình an". Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi.

– Thơ:

Đào huyện vị tuần nhật,
Xuân đình tao tật thâm.
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm.

– Giải nghĩa đen:

Làm quan đến nhậm chức chưa được mười ngày,
Cha ở nhà bị đau nặng.
Xin lấy mình chết thay cho cha,
Nếm phân sinh lòng lo ngại.

– Dịch nôm:

Tới huyện nha, chưa bao lâu,
Xuân đường thoát bị bệnh đau ở nhà.
Khấn trời xin chết thay cha,
Nếm phân thấy ngọt biết là bệnh nguy.

22.- THÔI PHỤ ĐƯỜNG THỊ
Đường thị là vợ một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không nhai được cơm. Đường thị cứ hàng ngày tắm rửa sạch sẽ, rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm mà cũng no. Cảm ơn ấy mẹ chồng không biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với trời xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng được hiếu thảo như Đường thị cả. Rồi sau các con cháu dâu nhà họ Thôi bắt chước nhau người nào cũng hiếu thuận. Vì thế, nhà họ Thôi được hưng thịnh.

– Thơ:

Hiếu báo Thôi gia phụ,
Nhũ cơ thân quán sơ.
Thử ân vô dĩ báo,
Nguyện đắc tử tôn như.

– Giải nghĩa đen:

Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ chồng,
Hành ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú.
Ơn ấy mẹ chồng không lấy gì báo lại,
Khấn trời mong cho con cháu dâu của Đường thị lại hiếu thảo với Đường thị.

– Dịch nôm:

Dâu họ Thôi hiếu thảo thay,
Cho mẹ chồng bú, hằng ngày tắm lau.
Giả ơn khấn nghuyện về sau,
Dâu nào cũng hiếu như dâu họ Đường.

23.- CHU THỌ XƯƠNG
Chu Thọ Xương sinh vào đời nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông lên bảy tuổi, thì mẹ đích ông đuổi mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình được sung sướng, để mẹ đẻ lưu lạc trong lòng không đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông có thề rằng: "Nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng Châu thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã 50 năm nay lại được gặp nhau, rất là vui vẻ, ông bèn đem mẹ về phụng dưỡng.

– Thơ:

Thất tuế sinh ly mẫu,
Sâm Thương ngũ thập niên.
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí đông Hoàng Thiên.

– Giải nghĩa đen:

Lên bảy tuổi bị lìa xa mẹ đẻ,
Như sao hôm sao mai đã 50 năm trời,
Một sớm được thấy mặt nhau,
Vui mừng cảm động đến trời.

– Dịch nôm:

Mẹ con chia rẽ đôi nơi,
Sâm Thương xa cách năm mươi năm tròn.
Bỗng đâu mẹ lại gặp con,
Mừng này ai biết hãy còn hôm nay.

24.- HOÀNG ĐÌNH KIÊN
Hoàng đình Kiên sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái sử (quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy tớ hầu hạ nhưng các đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà lau rửa bao giờ cả.

– Thơ:

Quý hiển văn thiên hạ,
Bình sinh hiếu sự thân.
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoán gia nhân.

– Giải nghĩa đen:

Giàu sang thiên hạ ai cũng biết tiếng,
Ngày thường thờ cha mẹ rất hiếu.
Chính tay mình rửa đồ để đại tiểu tiện của cha mẹ,
Không sai người nhà làm việc ấy bao giờ cả.

– Dịch nôm:

Dù mình chức trọng quyền cao,
Tấm lòng hiếu thảo khi nào dám sai.
Đồ thân dùng dẫu bẩn hôi,
Tay rửa lấy, chẳng sai ai bao giờ.

Cập nhật ( 15/08/2011 )

Related Posts

Hành trình đưa Khóa tụng thống nhất đến với Phật tử

2 tuần trước
0

Pháp phục Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ

2 tuần trước
0

ĐẨY MẠNH ĐỀ ÁN PHÁP PHỤC, NGÔN NGỮ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

2 tuần trước
0

Bạc Liêu: Lễ ký kết hợp tác giữa Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN và Ban Trị sự GHPGVN tỉnh

2 tuần trước
0

Tham luận 40 năm thành lập GHPGVN: Đặc trưng Văn hóa Phật giáo Việt nam (HT. Thích Thọ Lạc)

1 tháng trước
0
Thiện nam tín nữ, Phật tử gần xa thành tâm lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm tại Quán Âm Phật Đài

Bạc Liêu: Tết Nguyên tiêu nơi mái chùa dân tộc

2 tháng trước
0
Next Post

Ý nghĩa Vu Lan (HT Thích Thanh Từ)

Vu Lan và tinh thần chuyển hóa (Minh Mẫn)

Bài viết xem nhiều

  • Đạo tràng chụp ảnh lưu  niệm

    Bạc Liêu: Đạo tràng chùa Bửu Thanh trở về “Quy kính Tam bảo” trong khoá tu Một ngày an lạc

    0 shares
    Share 0 Tweet 0
  • Bạc Liêu: Khóa tu Bát quan trai tại chùa Long Phước huyện Đông Hải

    0 shares
    Share 0 Tweet 0
  • Bạc Liêu: Phật giáo Bạc Liêu khởi công xây dựng cầu An Sinh Số 4 – Thị xã Giá Rai, do gia đình ông Phạm Thanh Hùng tại California tài trợ

    0 shares
    Share 0 Tweet 0
  • Bạc Liêu: Trang nghiêm Lễ An vị tôn tượng Đức Phật Dược Sư tại chùa Giác Hoa

    0 shares
    Share 0 Tweet 0
  • Bạc Liêu: Chùa Giác Hoa trao tặng 200 phần quà cho người khuyết tật

    0 shares
    Share 0 Tweet 0

Thông báo

Lưu trữ

Bạc Liêu: THÔNG BẠCH ĐẠI TRÙNG TU KHU QUÁN ÂM PHẬT ĐÀI (MẸ NAM HẢI BẠC LIÊU)

6 ngày trước
0
Lưu trữ

Bạc Liêu: Thư mời Quý Phật tử tham dự Lễ đặt đá xây dựng khu Quán Âm Phật Đài

2 tuần trước
0
Lưu trữ

Bạc Liêu: Thường Trực Ban Trị sự thông báo hành trì Đại bi chú-đảnh lễ Ngũ bách danh cầu nguyện xây dựng – đại trùng tu khu Quán Âm Phật Đài

2 tuần trước
0
Lưu trữ

Bạc Liêu: Thường Trực Ban Trị sự thông báo hành trì Đại bi chú-đảnh lễ Ngũ bách danh cầu nguyện xây dựng – đại trùng tu khu Quán Âm Phật Đài.

3 tuần trước
0
Lưu trữ

Thông bạch: Tổ chức an cư kết hạ – Phật lịch 2567

3 tuần trước
0
Lưu trữ

Thông bạch của Hội đồng Trị sự GHPGVN về việc trao tặng quà Xuân 2023 cho người có hoàn cảnh khó khăn

3 tháng trước
0

Ban trị sự

Tự viện

Từ thiện

Lịch vạn niên

03/2023
CNT2T3T4T5T6T7
 
 
 
 
 
 
1
10/2
2
11
3
12
4
13
5
14
6
15
7
16
8
17
9
18
10
19
11
20
12
21
13
22
14
23
15
24
16
25
17
26
18
27
19
28
20
29
21
30
22
1/2
23
2
24
3
25
4
26
5
27
6
28
7
29
8
30
9
31
10
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Liên kết website

  • Phật Giáo Việt Nam
  • Phật Giáo Org
  • Thư Viện Hoa Sen
  • Báo Bạc Liêu

Thống kê truy cập

  • 5
  • 2.244
  • 3.318
  • 187.563

GHPGVN TỈNH BẠC LIÊU

  • Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
  • Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
  • Điện thoại: 0949 111 848
  • Email: giacnghithich@gmail.com

VĂN PHÒNG & LIÊN LẠC

  • Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
  • Trụ sở: Chùa Long Phước 2/234 Nguyễn Thị Minh Khai, P.5, Tp.Bạc Liêu
  • Điện Thoại: 0291.3696968
  • Email: phatgiaobl@gmail.com

THÔNG TIN TÀI KHOẢN:

  • Tên tài khoản: Quán Âm Phật Đài
    - Ngân hàng ACB: 949111888
    - Ngân hàng BIDV: 78510000999899
    - Chi nhánh Bạc Liêu.
  • Tên tài khoản: Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
    - Ngân hàng BIDV: 78510000556869
    - Chi nhánh Bạc Liêu

© 2022 Phật Giáo Bạc Liêu - Trang Tin Điện Tử Phật Giáo Bạc Liêu

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Ban Chứng Minh
    • Ban trị sự
    • Các ban trực thuộc
  • Tin tức – Phật sự
  • Từ thiện xã hội
  • Lịch sử – văn hóa
    • Văn hoá phật giáo
    • Lịch sử văn hoá
  • Nhân vật – Sự kiện
    • Nhân vật
    • Sự kiện
  • Phật học
    • Tự viện
  • Trung cấp phật học