VÀI NÉT VỀ HỘI HỌA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
* Họa sĩ Nguyễn Thị Nhàn
I. Giới thiệu chung
Từ thế kỷ thứ mười một đất nước được thái bình, Phật giáo phát triển rực rỡ, nghệ thuật hình nói chung có điều kiện phát triển mạnh đặc biệt điêu khắc, kiến trúc, mỹ thuật Phật giáo càng được thăng hoa. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam từ xưa tới nay đã có những thành quả rất lớn và được thể hiện chủ yếu ở những công trình mang tính tôn giáo thờ tự chủ yếu là các ngôi chùa cổ. Hay nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng Mỹ thuật Phật giáo đã có những đóng góp lớn trong nền Mỹ thuật tạo hình Việt Nam.
II. Vai trò của hội họa Phật giáo Việt Nam
A. Sự hình thành và phát triển:
Khi nói đến Mỹ thuật, chúng ta nói đến điêu khắc, hội học và kiến trúc. 3 thể loại này thường gắn liền với nhau, cùng tồn tại và phát triển.
Sự hình thành và phát triển của Mỹ thuật Phật giáo Việt Nam về mặt kiến trúc và điêu khắc đã được đề cập tới từ sách báo tranh ảnh nhiều bởi các công trình này còn tồn tại nhiều, ai cũng nhận thấy, còn về hội họa Phật giáo ít người chú ý đến sự tìm hiểu còn quá sơ sài bởi các tác phẩm hội họa Phật giáo bị mai một và thất lạc, không lưu giữ nhiều chỉ còn lại rất ít tranh của thời kỳ sau này. Nhưng nhìn lại những bức phù điêu, chạm khắc tranh tường… ở các ngôi chùa chúng ta có thể hiểu giai đoạn đầu sẽ phải là những nét vẽ của nghệ nhân lên mặt phẳng trước khi dùng dao đục chạm khắc để tạo thành các hình sóng nước, hoa lá, rồng phượng… Rõ ràng là hội họa với khía cạnh này người ta gọi là “Đồ họa” hay nghệ thuật đường nét.
Bên cạnh ý nghĩa của nghệ thuật đường nét. Chúng ta còn thấy mặt thứ hai của nghệ thuật hội họa đấy là vận dụng màu sắc. Thời kỳ xưa chỉ thấy màu đỏ của Thổ hoàng được sử dụng là chính, về sau màu sắc trên tranh đã phong phú nhiều, chủ yếu là đỏ sẫm, lục, lam, vàng và đen.
B. Các thể loại tranh:
1. Tranh chạm khắc:
Hiện tại các tác phẩm điêu khắc, kiến trúc Phật giáo còn tồn tại nhiều, về hội học chưa sưu được tập một bức tranh nào vẽ trên giấy vải về Phật giáo của những thế kỷ đầu.
Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta hoàn toàn không biết gì về sự phát triển của hội họa Phật giáo, dựa vào các bức tranh chạm khắc trên đá, trên ghỗ còn mãi mãi chứng tích về sự có mặt của các bức tranh từ thời Lý Trần tới nay.
Cũng như điêu khắc Phật giáo gắn liền với kiến trúc. Điêu khắc có khi hỗ trợ cho Kiến trúc còn hội họa Phật giáo để trang trí. Nhưng trang trí ở đây hoàn toàn không phải giản đơn để cho “vui mắt” mà có ý nghĩa truyền tải những lời răn dạy của đức Phật về cách sống, cách tu tập, các nghi lễ Phật giáo v.v…(*)
Đó chính là tranh chạm mặt lan can, hành lang chạy quanh hồ Linh Chiểu và Bích Trì thuộc chùa Một Cột ( Hà Nội). Những tượng đắp và hình vẽ ở chùa Báo Ân ( Thanh Hóa).
Rồng trên cốn chùa Thái Lạc (H31) (*)
Rồng trong cánh sen bệ tường chùa Ngọc Khảm (H53) (*)
Rắn biểu trưng sóng nước ở bệ tượng chùa Ngọc Khảm (H54) (*)
Rồng chùa Phật Tích (H48) (*), Hương Sơn (H47) (*), Thái Lạc (H48) (*)
Những hình chạm nổi người múa và biểu diễn nhạc cụ trên mặt phẳng cảu đá, tất cả thể hiện sự sôi nổi mà vẫn trang nghêm của điệu múa “lục cúng” rất quan trọng trong nghi lễ Phật giáo. Nhóm nhạc công đánh đàn và người chia dây hoa (chùa Thái Lạc) được thể hiện một cách sinh động (H32) (*).
2. Tranh minh họa:
Trong tất cả các tạng kinh nhà Phật, Phần minh họa trong kinh không thể thiếu. Tranh được in trên giấy gió thường là tranh đen trắng. (chụp minh họa tranh ở kinh) (*).
Trong các bản kinh cổ in trong giấy gió, bao giờ cũng có những hình tranh minh minh họa, cũng có lúc là để minh họa kinh bằng tranh cho người đọc dể hiểu, cũng có lúc là những bức tranh những vị Phật hoặc Phật Tam thế. (chụp minh họa kinh cổ (*) Thậm chí còn có nhiều cuốn tranh dạy người xem cách tu tập và hiểu sâu nghĩa của phép tu. Tiêu biểu như cuốn “Tranh vui thiền” của tác giả… (*) Kinh Pháp Hoa bằng tranh: tác giả Trung Quân (*), tích truyện Kinh Địa Tạng: tác giả Trọng Đức (*). Tuy không phải đọc nhiều nhưng qua những hình ảnh tranh vẽ của cuốn sách, các Phật tử có thể hiểu được ý nghĩa cao sâu của lời Phật dạy một chách dễ dàng.
Tranh minh họa Phật giáo còn đóng góp tích cực, luôn có mặt ở các báo, tập san của Nhà chùa như tuần báo giác ngộ, nguyệt san giác ngộ, đặc san chùa Hương… (*) góp phần cho các báo Phật giáo ngày càng thâm nhập sâu tới người xem một cách rộng rãi, số người đọc ngày một tăng, trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt.
3. Tranh minh họa:
Tranh tường là một phần không thể thiếu vắng trong mỹ thuật Phật giáo, cùng với điêu khắc, kiến trúc đã dựng lên thế giới của Phật.
Những bức tranh tường chạy dài tiêu biểu là tranh được vẽ trên tường chùa Quán Sứ (Hà Nội) (*) và một số chùa khác, tranh tóm tắt lại cuộc đời đi tu của Đức Phật cho người xem học tập và tu trì, đồng thời cũng có những bức tranh vẽ địa ngục và niết bàn đã giải thích được luật nhân quả vốn trừu trượng, bày ra hai viễn cảnh tương lai, con đường đi đến cõi cực lạc và con đường dẫn xuống địa ngục để Phật tử trông thấy mà tự lựa chọn.
Cách dùng hình tượng thảnh thơi an lạc tại cõi niết bàn đối lập với những hình phạt ghê gớm ở chốn âm cung, khi đập vào mắt người xem tự nhiên làm cho người ta rùng mình kinh sợ, khi nghĩ đến phải ra nơi phán xét cuối cùng nếu mình làm những điều độc ác (tranh Địa ngục) (*).
Ở đây những tranh vẽ có sức mạnh giáo dục, truyền tải tới người xem những lời giáo lý răn dạy của Đức Phật tới Phật tử nhằm xây dựng con người có lòng từ, bi, hỷ, xả.
Rõ ràng ở đây những người họa sĩ Phật cũng phải đã từng học và hiểu nội dung của kinh Phật hiểu được sự hình thành, quá trình tu tập và truyền pháp cảu Đức Phật thông qua những tác phẩm họa của mình nhằm truyền cho người xem những ý tưởng mà mình đã lĩnh hội được, đấy chính là thành công về mặt hội họa của Phật giáo.
Đúng như văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở Thanh Hóa có nói rõ “Tường vách vẽ đồ, chư duyên nhân quả thiên biến vạn hóa, rất là huyền diệu, người nào trông thấy cũng cố gắng làm điều thiện, răn bỏ điều ác, ấy là nơi cư trú của Đức Phật vậy” (thơ văn Lý Trần).
4. Tranh chữ:
Hội họa Phật giáo nhiều khi liên hệ khăn khít với thi ca, có những bức tranh đẹp cũng như bài thơ hay phải là tác phẩm trong cái này có bóng dáng cái kia. Đúng như lời khen của cổ nhân “Thi trong hữu họa, họa trong hữu thi”.
Mà đúng như vậy thật, sự phối hợp giữa hội họa và viết chữ đẹp đã trở thành một biểu hiện nghệ thuật. Ngay bản thân một dòng chữ đẹp đề chú trên tranh (*) hay một bức tựa đề cổ tự (tên chùa), chữ trên những bức hoành phi (*), câu đối… (*) cũng có thể coi là những bức tranh đẹp, một bức tranh có phong cách độc đáo.
Sử cũ cho biết vua Lý Thánh Tông năm 1071 đã ngự viết chữ “Phật” dài tới 6 trượng 6 thước rồi cho khắc vào bia đá chùa núi Tiên Du, tấm bia độc đáo ngày nay không còn nhưng ta còn giữ một tấm bia ở chùa Hòm (Hải Dương) cao 1,6m dựng năm 1331 mặt trước chạm chữ “Phật” (*) lớn, chắc hẳn trước khi đục người nghệ sĩ Phật tử ấy phải viết chữ trên mặt bia, sau đó mới theo nét viết mà đục, cậy bỏ đi phần nền. Nét chữ Phật mềm mại, có chỗ mở rộng, có chỗ thu lại dần dần, có chỗ cong duyên dáng, lại có chỗ phẩy đột ngột và mạnh mẽ đòi hỏi người viết phải nghiên cứu, tay và mắt phải luyện như tập vẽ mới để lại cho chúng ta một chữ Phật viết thoải mái và bay bướm như vậy.
5. Tranh Mandala:
Những năm gần đây tại một số ngôi chùa các bức tranh Mandala được trình bày xếp đặt một cách nghêm túc ở những nơi trang trọng nhất, những nơi thờ tự… (*) (chùa Hương, chùa Thầy…). Những bức Mandala này phần lớn được vẽ khắc rên đồng, vẽ trên vải… với cách vẽ cân đối. trọng tâm là một điểm thu hút tất cả năng lượng vũ trụ bên ngoài và năng lượng của người tín tâm được khai mở. Bởi vậy Mandala được coi là một bản tôn hóa Phật.
Với những bức Mandala đã đánh dấu nền hội họa Phật giáo Việt Nam có thêm những sáng tác mới đóng góp và hội họa Phật giáo Việt Nam một phong cách mới tuy vẫn giữ được nguyên tắc chung của Mandala Phật giáo nhưng vẫn có nét riêng trở thành Mandala mang tinh thần và cách thể hiện riêng biệt của hội họa Việt Nam.
Hiện nay có một số họa sĩ Phật tử đã mạnh dạn vẽ những bức tranh Mandala (*) (tranh của Đức +N).
III. Kết:
1. Sự đóng góp của hội họa Phật giáo trong nền mỹ thuật Việt Nam.
Hội họa Phật giáo Việt Nam từ những giai đoạn đoạn đầu đã được phát triển phong phú, muôn hình muôn vẻ.
thiên nhiên nhiệt đới rất giàu cảnh sắc, đấy chính là nguồn cảm súc cho các nghệ sĩ nói chung khi sáng tác nghệ thuật, không nằm ngoài ngững cảm xúc vậy các nghệ sĩ Phật tử cũng đưa thiên nhiên vào các tranh trang trí trong chùa nhưng không sao chép nguyên xi mà chọn những gì hiền hòa nhất, thơ mộng nhất, những hình hoa Cúc, hoa Sen, những con chim, con bướm, con cá… và cả những em bé xinh xắn rất thơ ngây vừa bơi lội vừa hái hoa… đấy là những hình ảnh gắn liền với cuộc sống hàng ngày, và các tạng kinh điển của nhà Phật (*)
Song những bức tranh Phật giáo của thời kỳ đầu đã mất đi theo sự hủy diệt của Kiến trúc, còn tranh giấy và lụa thì chất liệu dễ hư nát, không tồn tại lâu dài do khí hậu nhiệt đới, đấy là thiệt thòi lớn của chúng ta.
Bù vào ấy chúng ta còn lại những bức tranh đã vẽ từ những thế kỷ 17 – 18 lại đây. Phần nào chúng ta có thể hiểu được cách vẽ của người xưa, các họa sĩ không chú trọng nhiều về phần cơ bản của hình tượng, cũng không xác định vị trí đứng vẽ như ở tranh cổ điển phương tây, tóm lại chỗ nào quan trọng thì nhấn mạnh, (*) đấy chính là đặc trưng riêng đánh dấu sự thành công của hội họa Phật giáo Việt Nam trong nền Mỹ thuật Việt nam (*).
2. Sự góp mặt của các họa sĩ hiện nay.
Hòa chung với sự phát triển của Đạo Phật ở mọi miền. Các Phật tử họa sĩ cũng muốn đóng góp sức mình một chút trong quá trình hoằng dương Phật pháp. Tiêu biểu nhà điêu khắc Phùng Điềm Thi, cố họa sĩ Nguyễn Gia Trí với bức tranh phong cảnh “chùa Hương”. Liên tiếp cá cuộc triển lãm ca ngợi tinh thần Phật giáo và mừng sinh được mở ra của các họa sĩ TP. Hồ CHí Minh…………………………………………………………………….., nhóm mặt hương của các họa sĩ Hà Nội để chào mừng Phật đản đã đánh dấu một sự mở đầu của Hội họa Phật giáo Việt Nam ngày nay càng được phát triển cả về số lượng và nội dung. (minh họa tranh san việt…Đức…Long…).
Cập nhật ( 17/01/2010 )