Bài từ “Ngọc Lang Quy”có phải do thiền sư Khuông Việt viết?
* Viên Như
“ Ngọc Lang quy hay Nguyễn Lang quy” được ghi trong lịch sử không phải do Khuông Việt viết. Bản của Khuông Việt chắc chắn phản ánh được tinh thần tự chủ, tự cường của nước Việt lúc bấy giờ. Nghiên cứu về bài từ này hiện nay ta không có tài liệu nào khác ngoài Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) và Thiền Uyển Tập Anh (TUTA), còn các bản trong Việt Sử Tiêu Án, Lỉnh Nam Chích Quái, v.v… cũng chủ yếu chép ra từ ĐVSKTT của Ngô Sỉ Liên mà thôi.
Chính vì vậy cần tìm hiểu về chữ nghĩa của bài từ này và hoàn cảnh ra đời của nó cặn kẻ, sau đó xâu chuổi các sự kiện cũng như lời lẽ của các bên cùng với không gian lịch sử lúc bấy giờ, từ đó ta chúng ta mới xem xét nội dung bài từ này có nằm trong giòng chảy tư tưởng của thời đại và con người lúc bấy giờ hay không. Bởi vì từ trước đến nay đa số người viết về bài từ này đều có chung nhận định rằng đây là bài từ mà Khuông Việt thay mặt triều đình nước Việt viết để tiển Lý Giác về Bắc với ngôn từ chứa đựng tình cảm thắm thiết. Sở dĩ họ suy nghĩ như vậy là vì vin vào lời giải thích của Khuông Việt trả lời Lê Hoàn về bài thơ mà Lý Giác tặng Pháp Thuận. Theo ĐVSKTT thì Khuông Việt đã trả lời Lê Hoàn rằng “ Thơ này tôn Bệ hạ cùng chủ nó không khác” Thử thi tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ vô dị’ Có thể từ lý do này mà người đời sau nghĩ rằng Lý Giác có cảm tình với nước Việt, từ đó bình giảng các bài thơ liên quan con người này theo hướng tích cực. Sự thật có như thế không? Bài từ Ngọc Lang quy có phải do Khuông Việt viết ?
Ta biết rằng trong chuyến đi sứ sang Nam Việt của Lý Giác lần hai năm 987 có ba sự kiện được ghi lại trong chính sử :
1 – Cuộc đối đáp văn thơ trên sông Sách giữa người chèo đò ( Pháp Thuận và Lý Giác)
2 – Bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận .
3 – Bài từ Khuông Việt thay mặt vua quan nước Việt viết tiển Lý Giác về Bắc.
Để nghiên cứu về bài từ Nguyễn Lang quy, trước hết ta hảy tìm hiểu xem những gì đã xảy ra trước đó cho đến khi Lê Hoàn sai Khuông Việt soạn bài Từ tiển Lý Giác.
Về câu chuyện đối đáp văn thơ trên sông Sách :
Năm (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang . Khi đến chùa Sách Giang,Vua sai Pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước. Giác vui ngâm rằng :
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngưỡng mặt hướng chân trời
Pháp sư đương cầm chèo theo vần làm nối đưa cho Giác xem :
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Lông trắng phơi giòng biếc,
Chân hồng đạp sóng khơi.
Từ ngàn xưa tới giờ, sứ thần phương Bắc sang nước ta là để sắc phong, ra oai, hạch sách, đâu phải vượt gió băng ngàn cốt chỉ làm thơ chơi. Tư tưởng của những kẻ ấy luôn luôn là tư tưởng của kẻ mạnh, kẻ thống trị, ngôn từ mà họ đã dùng để chỉ Nam Việt bấy giờ là Nam man, mà theo cách nói ngày nay là mọi Nam thì làm gì có chuyện có cảm tình như người ta nghĩ. Ngay sự kiện này cũng cho thấy Lý Giác hiểu rất rỏ rằng những người đón ông ta trên chiếc thuyền này (ngày nay ta gọi là phái bộ ngoại giao) đều là những người được tuyển chọn của nước Nam nên ngay cuộc gặp gở chưa chính thức này ông ta đã ra một đòn phủ đầu:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nhai
Ngưỡng mặt hướng chân trời .
Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Nếu Lý Giác có hứng khi thấy hai con ngỗng đang bơi trên sông mà làm thơ thì sao không làm luôn cả bài, hoặc giả nếu như mới chỉ làm hai câu thì sao không giữ đó mà tiếp tục suy nghĩ để hoàn thành bài thơ, sao lại viết hai câu đưa Pháp Thuận xem (qua sự kiện này ta biết rằng hồi ấy chỉ có bút đàm thôi. Do đó hành động này của Lý Giác xem như là lời nói vậy) Tại sao Lý Giác lại nói vậy? Nó có nghĩa là gì? Nên nhớ rằng trong ngoại giao không có chuyện nói chơi, nhất là sứ giả ( Đại sứ) . Dĩ nhiên Pháp Thuận hiểu ông ta muốn nói gì . Như đã nói trên, Lý Giác ra một đòn phủ đầu bằng cách sử dụng hình ảnh hai con ngỗng để ví cho Vua, quan nước Việt phải luôn ngưỡng mặt chầu về thiên triều. Vì hiểu được ý của Lý Giác nên Pháp Thuận bèn trả lời ngay :
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bão thanh ba.
Chân hồng đạp sống khơi.
Lông trắng phơi giòng biếc,
Như thế là Pháp Thuận hoàn thành được cả hai mặt, văn chương và hàm ý. Về văn chương thì ai cũng biết rồi, cả bốn câu làm thành một bài thơ như một bức tranh, nhưng còn hàm ý thì sao? Màu TRẮNG là tượng trưng cho sự công khai, ngày nay ta vẫn thường dùng các từ như : Cáo bạch, thông bạch hay sách trắng, nói trắng ra, trắng đen rỏ ràng v.v..PHƠI là khoe ra, phô ra, trình ra, GIÒNG BIẾC là chổ rộng rải, bẳng phảng hay nói khác là quốc tế, bình đẳng. CHÂN là biểu tượng cho bộ phận đẩy toàn bộ cơ thế chuyển động, màu hồng biểu tượng cho sức mạnh, ở đây chỉ cho nội lực vì chân ngỗng chìm trong nước….. ĐẠP là vượt lên, bất chấp mọi trở ngại, SÓNG XANH nghĩa là sự cản trở, không cho vượt lên. Như thế ta có thể hiểu rằng : Về mặt ngoại giao (bộ ngoại giao là nơi công khai chính sách của một quốc gia trên trường quốc tế) thì chúng tôi trình ra trên trường quốc tế về nền tự chủ của nước chúng tôi, nhưng nếu như ai đó gây ra sóng gió để mà cản trở thì chúng tôi có đủ sức mạnh nội lực để đạp lên mà đi tới.
Như thế là đã quá rỏ, đây là một trận chiến bằng ngôn từ, hai con người đại diện cho hai đất nước và hai lập trường. Lý Giác thì kiêu ngạo, kẻ cả. Pháp Thuận thì mềm dèo mà kiên cường. Tinh thần này đã được phản ảnh suốt chiều dài lịch sử Việt Nam.
Nên nhớ rằng chỉ cách đó một năm, chính Lý Giác đi sứ sang nước ta để bảo lảnh cho hai tướng Quách quân Biện, Triệu Phụng Huân bị ta bắt trong trận hải chiến trên sông Bạch Đằng (981) về nước với tâm lý ê chề của kẻ cả bại trận và giờ đây lại bị Pháp Thuận đáp trả thâm hậu như thế thì làm gì có chuyện Lý Giác có cảm tình với Pháp Thuận và nước Việt. Chắc chắn Lý Giác giận lắm nhưng đành nuốt giận, vì tình hình nước Việt lúc này đã hoàn toàn khác. Trong tinh thần đó Lý Giác làm một bài thơ tặng Pháp Thuận và qua Pháp Thuận nhắn nhủ tới nước Nam.
Về bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận:
Hạnh ngộ minh thì tán thạnh du
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
“Thiên ngoại hữu thiên” ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tỉnh kiến thiềm thu.
Tạm dịch nghĩa :
May gặp thời bình được tham mưu chuyện tăng cường ngoại giao,
Một mình hai lần đi sứ sang đất Giao Châu,
Hai lần từ biệt Đông đô mà tâm đầy lưu luyến
Từ nước Việt xa xôi ngàn trùng nhớ ( về Đông đô) chẳng nguôi.
Ngựa đạp khói mây băng qua dốc đá lở
Xe qua rừng rậm vượt dòng sâu,
“Ngoài trời có trời” nên xa biết ( nhìn xa trông rộng)
Sóng trong khe đầm lặng rồi sẽ thấy trăng thu.
Tạm dịch thơ :
May gặp thời bình giúp ngoại du,
Một mình hai lượt sứ Giao Châu,
Đông đô đôi bận xa lưu luyến,
Nam Việt ngàn trùng nhớ chẳng nguôi,
Ngựa đạp khói mây băng đá lở,
Xe qua rừng rậm, vượt dòng sâu
“Thiên ngoại hữu thiên” nên biết rộng
Sóng khe đầm lặng thấy trăng thâu.
Rỏ ràng bài thơ này không có bất kỳ một lời lẽ nào để cho rằng Lý Giác có cảm tình với nước Việt. Sau khi ca ngợi triều Tống anh minh và đã tín nhiệm mình trong việc ngoại giao( Câu 1,2)) ông tiếp tục bày tỏ sự trung thành của mình với đất nước. Dù bất cứ nơi đâu, khi nào ông cũng cũng hướng về Đông đô( Câu 3,4). Kế đến ông kể lể sự gian khổ mà ông phải trải qua trong hành trình sang nước Việt( Câu 5,6) và cuối cùng ông ta cảnh cáo nước Việt cần phải nhìn xa trông rộng. Câu “ Thiên ngoại hửu thiên” trích trong Đạo Đức kinh của Lảo Tử, câu này đã trở thành thành ngữ với nghĩa là đừng tự cao, tự đại, cho mình là nhất, vì ngoài trời còn có trời cao rộng nữa, hay ông mạnh thì còn có người khác mạnh hơn. Còn như nước Việt các ông cũng như khe đầm (nước nhỏ) thôi, vì vậy sóng trong khe đầm (ám chỉ việc nổi dậy của nước nhỏ mà cụ thể là trận chiến trên sông Bạch Đằng) mà lặng ( bị dẹp yên) thì sẽ thấy trăng thu ngự trị trong nước khe đầm ấy ( trăng là biểu tượng cho quyền lực của phương Bắc).
Một bài thơ với những ý tứ như thế thì làm sao mà bảo là có cảm tình với nước Việt được. Có thể người đời sau vin vào câu trả lời của Khuông Việt mà cho rằng Lý Giác có cảm tình với nước Việt, từ đó khi dịch và bình giảng các bài thơ trên đều phải uốn nắn sao cho phù hợp với tư tưởng rằng Lý Giác có cảm tình với nước Nam. Điều này hết sức tai hại, vì ngày nay đa số người Việt không biết chữ Hán, họ chỉ tìm hiểu lịch sử qua các bản dịch và giải thích bằng quốc ngữ hiện nay mà thôi.
Trở lại với lời giải thích của Khuông Việt. Như ta biết nội dung bài thơ này rỏ ràng như đã giải thích trên, vậy tại sao Khuông Việt trả lời Lê Hoàn “Thơ này tôn Bệ hạ cùng chúa nó không khác”. Ông không hiểu ý của Lý Giác muốn nói gì trong bài thơ chăng? Với những gì ghi lại trong lịch sử, ta biết rằng vị trí của Khuông Việt trong triều đình còn cao hơn cả Pháp Thuận. Chứng tỏ đối với Lê Hoàn, Khuông Việt là người có tài đức và dường như ông tuyệt đối tin tưởng vào sự tham mưu của Khuông Việt, chính vì vậy khi Pháp Thuận trình bài thơ lên, Lê Hoàn mới cho gọi Khuông Việt để hỏi ý kiến. Qua cách trả lời của Khuông Việt ta có thể hiểu rằng :
Ông không những hiểu được ý đồ của phương Bắc thông qua con người Lý Giác (A) mà còn rất rỏ về con người Lê Hoàn (B), đồng thời cách trả lời của ông cho dù không phản ảnh đúng những gì mà LG ngầm gởi, nhưng cũng chẳng phải hoàn toàn vô căn cứ (C).
A -Từ ngàn xưa đến nay, ý đồ của phương Bắc bao giờ cũng muốn chiếm lấy nước Nam, nếu không thực hiện được thì thông qua con đường ngoại giao buộc nước ta phải thuần phục và triều cống. Chính vì vậy khi sứ thần phương bắc sang nước ta họ luôn tự xem như là kẻ bề trên, cho nên khi sứ thần phương bắc đọc chiếu thư của vua họ, sứ giả thì đứng còn vua ta thì phải quỳ mà lạy nhận. Chuyện này làm sao mà Khuông Việt không biết được. Chính vì vậy chắc chắn Khuông Việt hiểu quá rỏ những gì mà Lý Giác gởi gắm trong bài thơ.
B – Nhưng phải trả lời làm sao để cho sự việc xảy ra không quá giới hạn, đây là cái tài của những người làm ngoại giao. Bởi vì hơn ai hết Khuông Việt hiểu rất rỏ về con người của Lê Hoàn – Một con người quyết đoán, mạnh mẽ, đầy lòng tự tôn và chắc chắn là nóng tính. Lịch sử cho thấy không những ông mạnh mẽ, quyết đoán mà đôi khi tàn bạo, trong nước thì giết Nguyễn Bặc, bắt Đinh Điền, đối với ngoại bang về quân sự thì đánh cho quân Tống tơi bời trên sông Bạch Đằng, còn đối với ngoại giao thì ông đã tỏ rỏ khí phách khi sứ nhà Tống là Tống Cảo sang phong cho ông chức “Đặc Tiến”, ông ngồi trên ngựa đón Tống Cảo, đến khi vào triều Tống Cảo đọc chiếu thư, Lê Hoàn chỉ với tay lấy, không quỳ lạy, lấy lý do là vừa mới đi đánh giặc Mán về bị ngã ngựa, đau chân không quỳ lạy được, đây là việc chưa có tiền lệ, nhưng Tống Cảo đành phải chấp nhận. Một con người với những tính cách như thế mà nói ra sự thật không khéo thì có thể trở thành lớn chuyện. Chính vì vậy cần trả lời làm sao cho vừa ý Lê Hoàn mà vẫn không hoàn toàn bịa đặt, nếu tự bịa thì rồi ra sẽ bị chém đầu bởi tội khi quân. Vì vua hỏi chứ không phải chuyện chơi, đồng thời đâu phải một mình Khuông Việt đọc bài thơ này nên không thể trả lời không có căn cứ được.
C – Vậy căn cứ vào đâu mà Không Việt bảo rằng “”Thơ này tôn Bệ hạ cùng chúa nó không khác”. Khi đọc bài thơ của Lý Giác, Khuông Việt hiểu ngay rằng Lý Giác đe dọa đó mà, tuy đe dọa nhưng rỏ ràng trong lòng Lý Giác đã thấy giao động, vì nước Việt giờ đây không còn dễ dàng bị bắt nạt, không làm được gì thì đe dọa, nhưng cho dù đe dọa chẳng nữa, vô tình qua cách dùng từ Lý Giác đã nói lên được rằng nước Việt giờ đây có đầy đủ thiết chế của một đất nước có chủ quyền, có vua , quan, quân đội, ngoại giao, chính vì vậy Lý Giác dùng từ THIÊN để chỉ nước Việt đồng thời cũng dùng từ THIÊN để chỉ cho nước Tống, mà trời nào cũng là trời, nên chi Khuông Việt mới trả lời Lê Hoàn như trên và câu trả lời ấy hoàn toàn có cơ sở. Vấn đề ở đây là Khuông Việt chỉ sử dụng cách dùng từ trong câu của Lý Giác mà trả lời chứ không dùng hoàn cảnh xuất xứ và ý nghĩa của câu ấy. Như đã nói trên câu “ Thiên ngoại hửu thiên” trích trong Đạo Đức kinh của Lảo Tử với mục đích là khuyên ai đó phải khiêm nhường, đừng chủ quan, chính vì vậy sau cụm từ này Lý Giác dùng từ “ ƯNG” có nghĩa là “NÊN”.
Về bài từ “ Ngọc Lang Quy hay Nguyễn Lang Quy.
Sau một thời gian ở nước Việt, Lý Giác trở về Bắc, vua sai Khuông Việt làm bài từ tiển Lý Giác. Nguyên văn như sau : (Ở đây chỉ chọn hai bản).
Bản Thiền Uyển Tập Anh.
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương,
Thiên trùng vạn lí thiệp thương lãng
Cửu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối li trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch nghĩa
Trời quang, gió thuận, giương buồm gấm,
Thần tiên về quê vua,
Vượt sóng xanh ngàn trùng vạn lí.
Đường về xa chín tầng trời.
Nhân tình thắm thiết, cùng cạn chén li bôi.
Vin thuyền bịn rịn tiển hai chàng đẹp trai,
Mong cùng thầm hiểu vì nước Nam.,
Rỏ ràng bẩm báo cho vua tôi.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
Tường quang , phong hảo, cẩm phàm trương
Dao vọng thần tiên phục đế hương,
Thiên trùng vạn lí thiệp thương lãng
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
đối li trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch Nghĩa
Trời quang, gió thuận, giương buồm gấm,
Dõi theo thần tiên về quê vua
Vượt sóng xanh ngàn trùng vạn lí.
Đường về xa chín tầng trời.
Tình thắm thiết,
cùng cạn chén li bôi.
Vin thuyền bịn rịn tiển chàng sứ đẹp trai,
Mong cùng thầm hiểu vì nước Nam.,
Rỏ ràng bẩm báo cho vua tôi.
Bài từ này lấy tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi lạc vào chốn thiên thai, thời gian sau nhớ quê nên trở về, các tiên nữ tiển hai chàng về mà lòng đầy lưu luyến. Chủ đề của bài từ là vậy, nhưng ở hai câu cuối lại lạc đề sang chuyện nước Nam với ý là mong Lý Giác thương tình mà khéo tâu với vua Tống về hoàn cảnh vua nước Nam.Theo tôi cả hai bản TUTA và ĐVSKTT đều chép trực tiếp từ ĐVSK của Lê Văn Hưu, nhưng căn cứ vào câu “Phan luyến tinh tinh lang” và “Phan luyến sứ tinh lang” thì rỏ ràng bản TUTA trung thực hơn. Vì như đã nêu trên, bài này nói về hai chàng trai, nên ở đây người viết mới dùng “Tinh tinh lang” có nghĩa là “Tinh lang, tinh lang” hai chàng trai tinh khôi, đẹp trai. Nhưng đến khi Ngô sĩ Liên viết ĐVSKTT, ông sửa lại thành “sứ tinh lang” chàng sứ đẹp trai. Điều này cốt để cho hợp với chuyện ca ngợi nịnh bợ Lý Giác, nhưng lại hoàn toàn không đúng với tích trên. Đó là chưa kể chữ lang mà đi với chữ sứ thì quá ư khiên cưởng. Bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận cho biết ông ta sang nước ta bằng đường bộ, vậy sao lại lấy chuyện sóng nước, buồm giăng mà tiển. Nếu có bịa để nịnh chăng thì cũng vừa vừa, chứ nịnh quá thì ngay cả người được nịnh cũng xấu hổ, huống chỉ cả triều đình vua quan nước Việt ; hơn nữa một thiền sư được vua sai mà lại viết như vậy, thì chắc rằng triều đình ấy gặp Lý Giác như chuột gặp mèo, nhưng thực tế xảy ra hoàn toàn ngược lại. Vậy lẽ nào Khuông Việt viết bài “ Ngọc Lang quy “ này !
Kết luận :
1 – Sự kiện đầu tiên là khi Lý Giác gặp Pháp Thuận trên sông. Lý Giác ngạo mạn, tưởng rằng nước Việt sẽ khúm núm, khiếp sợ uy phong của thiên triều, nhưng đã bị Pháp Thuận dội cho một gáo nước lạnh. Sự việc như vậy làm sao Lý Giác có cảm tình với Pháp Thuận và nước Việt được?
2 – Vì bực bội trong lòng nhưng không thể làm gì nên Lý Giác làm một bài thơ ca ngợi nước Tống, bày tỏ lòng trung thành, rồi kể công vất vã đi sứ và cuối cùng đe dọa nước Việt “hãy Coi chừng”. Đây là thái độ chung của các sứ giả phương bắc chứ chẳng riêng gì Lý Giác, điều ấy đã được Trần Hưng Đạo phản ảnh trong Hịch Tướng Sĩ như sau : Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ”. Thế thì làm sao mà bảo Lý Giác tử tế, có cảm tình với nước Việt được.
3 – Qua hai sự kiện trên cho thấy Lý Giác chưa từng có chút cảm tình nào với nước Việt, vậy mà trước khi về nước, vua sai Khuông Việt làm bài từ tiển Lý Giác, ngôn từ lại ủy mị, nữ nhi, tự hạ mình xuống làm kẻ chư hầu, thuộc cấp. Cả ba sự kiện này cùng xảy ra đối với những con người cụ thể và trong cùng một chuyến đi của Lý Giác. Vậy sao chỉ trong một thời gian ngắn, sự kiện trước lại mâu thuẩn với sự kiện sau toàn diện như vậy? Liệu có thật không?
4– Qua phân tích trên, ta thấy nội dung của bài từ bất nhất, rỏ ràng hai câu cuối được sửa chửa để phù hợp với việc tiển Lý Giác; đồng thời hạ thấp vị thế nước Việt như kẻ bề tôi. Điều này chứng tỏ toàn bộ nội dung bài từ này đã có đâu đó rồi, ai đó chỉ lấy ra rồi sửa hai câu cuối rồi đưa vào sử mà thôi, chứ lẽ nào với tư cách là một thiền sư, tăng thống, quốc sư đựợc vua sai mà lại viết một bài ủy mị, nữ nhi, hèn yếu và lủng củng như vậy.
5 – Việc vua sai Khuông Việt viết hay soạn một văn bản nào đó tiển Lý Giác là có thật và chắc rằng Khuông Việt đã hoàn thành nhiệm vụ đó, đồng thời nội dung tác phẩm đó nhất định phải thống nhất với tinh thần thời đại Lê Đại hành như Pháp Thuận đã trả lời Lý Giác trên sông Sách, nhằm trả lời lại những gì mà Lý Giác đe dọa nước Việt trong bài thơ tặng Pháp Thuận như đã phân tích trên.
6 – Rất có thể chính vì nội dung bài của Khuông Việt mạnh mẽ quá, nên về sau ai đó đã thay nó bằng bài từ Ngọc Lang quy này. Đây không phải là chuyện cá biệt, ngay cả bài thơ Vịnh nga cũng không ngoại lệ. Xem (http://viennhu.vnweblogs.com/post/11641/182965).
Với tất cả những gì trình bày trên, tôi cho rằng bài từ “ Ngọc Lang quy hay Nguyễn Lang quy” được ghi trong lịch sử không phải do Khuông Việt viết. Bản của Khuông Việt chắc chắn phản ánh được tinh thần tự chủ, tự cường của nước Việt lúc bấy giờ, mà tiêu biểu như những gì Pháp Thuận đã trả lời Lý Giác Còn bản Ngọc Lang quy là bản đã được ai đó đưa vào ĐVSKTT nhằm thủ tiêu nguyên bản của Khuông Việt với mục đích rằng chính người Việt đã chấp nhận phận bề tôi, đã hạ mình như thế nào cho dù đó mới chỉ là một sứ thần phương bắc. Điều đáng buồn là trong khi người ta dùng những từ ngữ miệt thị, khinh khi mình, thì mình lại cố uốn nắn lời nói của họ thành những lời đường mật để tự ru mình.