HẬU BỔ – TRƯỜNG HÀNH CHÁNH QUỐC GIA CỦA NHÀ NGUYỄN
* Nguyễn Đắc Xuân
Ngày xưa quan lại, công chức nước ta được bổ nhiệm qua hai con đường khoa cử và đề cử. Khoa cử là những người đã đỗ các bằng Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, tú tài; đề cử là những người giỏi trong dân chúng được quan lại các cấp phát hiện và tiến cử cho nhà nước sử dụng. Phần lớn quan lại mới được bổ nhiệm. Một số được học thêm ở trường Uyên bác hoặc trường Sĩ hoạn. Kiến thức về hành chính ở các trường này không còn thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam bắt đầu Âu hóa dưới các triều Thành Thái, Duy Tân. Đến đầu thế kỷ XX, nhà vua bắt buộc tất cả những người có bằng cấp của Nam triều muốn được bổ nhiệm phải trải qua một thời kỳ học tập văn minh văn hóa phương Tây và kiến thức hành chính mới tại một lớp học đặc biệt mở tại trường Quốc học.
Các cụ Tiến sĩ, Phó bảng tốt nghiệp khoa Tân Sửu (1901), trong đó có cụ Nguyễn Viết Song (Tiến sĩ, người làng Dạ Lê Chánh), cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh), nhà yêu nước Phan Châu Trinh, đã trãi qua lớp học đặc biệt nầy. Tuy nhiên về sau, ngay cả lớp học đặc biệt tại trường Quốc Học cũng không thể thỏa mãn được yêu cầu đào tạo cán bộ, công chức để cung cấp cho bộ máy nhà nước. Ngày 7.4 năm Duy Tân thứ 5 (5.5 1911), vua Duy Tân đã ký Sắc dụ mở trường Hậu bổ (Aspirants – mandarins) tại Kinh đô Huế. Tất cả các nhà khoa bảng đều phải học ba năm tại trường Hậu bổ trước khi được bổ nhiệm.
Trường Hậu bổ tại Kinh đô sử dụng lại cơ sở cũ của Nha thương bạc (Service des commercans venus par mer) ở ngay bên ngoài cửa Chính Đông. Ngày 28.7.1911, vua Duy Tân và Khâm xứ Trung kỳ Sestier đã khai giảng niên khóa đầu tiên.
Trường Hậu bổ nhìn ra sông Hương, phía sau là ao sen, chung quanh có thành bao bọc. Hai bên quãng sông rộng có hai cây “bút bút” cổ thụ bốn năm người ôm không xuể. Vượt qua đường phố Paul Bert (nay là Trần Hưng Đạo) là sân vận động, vườn hoa, nhà phục vụ cho sinh viên tập thể dục, đá banh, chèo thuyền và tập bơi.
Người trợ giáo đầu tiên của trường Hậu bổ là cụ Lê Văn Miến là một trong ba người Việt Nam đầu tiên (*) được triều đình Huế cử sang Pháp du học và đã tốt nghiệp Trường thuộc địa của Pháp. Cụ cũng là người đầu tiên tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris (Beaux arts de Paris). Trước khi nhậm chức tại trường Hậu bổ, cụ Lê Văn Miến là thầy dạy vẻ tại trường Quốc Học . Chàng thanh niên Ngyễn Thanh Cung (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) từng là học sinh của cụ Miến. Năm 1914 cụ Miến được thăng chức Phó đốc giáo (Phó hiệu trưởng) trường Hậu bổ, năm 1919 được cử làm Đốc giáo (Hiệu trưởng). Sinh viên trường Hậu bổ về sau có nhiều người rất nổi tiếng như cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (thân sinh của bác sĩ (Nguyễn Khắc Viên, học trường Hậu bổ từ 1914 đến 1916), cụ Hoàng giáp Đinh Văn Chấp (thân sinh của Hòa thượng Thích Minh Châu), cụ tiến sĩ Võ Thị Cát (cụ nội của nhà khảo cổ học Võ Sĩ Khải). Ngay cả những người có bằng Tú tài Pháp cũng phải học trường Hậu bổ đi làm quan như ông Ngô Đình Diệm, ông Lê Thanh Cảnh (người học cùng lớp với Bác Hồ tại trường Quốc Học).
Có thể nói, lớp quan lại cao cấp của Nam triều nữa đầu thế kỷ XX đều xuất thân từ trường Hậu bổ Huế.
Nơi tọa lạc của nhà trường Hậu bổ cũ, sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây dựng nhà hát Hưng Đạo tồn tại cho đến ngày nay. Tấm ảnh tòa nhà chính của trường Hậu bổ minh họa cho bài viết này, được chụp từ trước năm 1954. Cũng nên nhắc lại một chút lịch sử của tòa nhà trước khi nó được dùng làm trường Hậu bổ.
Hồi đầu triều Nguyễn, ở Kinh đô có nhà Công quán (Hôtel des passagers officiels) xây dựng ở trước khu Mang Cá. Năm 1875, để tiện việc giao thiệp với người Pháp, vua Tự Đức cho vời Công quán ra bờ sông Hương, bên ngoài cửa Chính Đông và đổi tên thành Thương bạc. Thương bạc có năm tòa. Tòa nhà chính để đón các sứ thần ngoại quốc. Ở bên cánh trái chính tòa là Ty thương bạc (Bureau des affaires étrangères) dưới quyền điều khiển của một ông Viên ngoại – do Bộ lễ biệt phái. Bên phải chính tòa là Ty hành nhơn (Bureau des voyageurs) dưới sự hướng dẫn của Linh mục Hoằng giữ chức Tham biện tại Thương bạc. Linh mục Hoằng là người phiên dịch chính thức của triều Tự Đức). Bốn tòa còn lại dành cho khoảng ba mươi học viên học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Thái và tiếng Lào do Linh mục Hoằng dạy. Sau ngày thất thủ Kinh đô 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương, Thương bạc dùng làm dinh thất của quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau khi Pháp bắt ông Nguyễn Văn Tường đày sang đảo Tahiti tướng Pháp Mnier – người chỉ huy quân đội Pháp ở huế, chiếm đóng tòa Thượng bạc, khiến cho tòa nhà lịch sử này hư hỏng nhiều. Đến năm 1897, người ta đã sửa sang, đóng thêm trần, sàn, cửa lớn, cửa sổ bằng gỗ lim dùng làm dinh thất cho quan đại thần thân Pháp Hoàng Cao Khải. Đến thời Thành Thái, nhà vua lấy tòa Thượng bạc làm phủ đệ cho hoàng tử Bửu Liêm. Đến đầu đời Duy Tân, nhà vua lập trường nữ họa sinh bản xứ tại đây trước khi tòa nhà được sửa chữa làm trường Hậu bổ. Trước năm 1945, có một thời Thượng thư bộ Học Phạm Quỳnh và sau đó ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe đã ở đây.
So với chức năng của các cơ qua nhà nước hiện nay, ta có thể hiểu nơi tọa lạc của Nhà hát Hưng Đạo bây giờ trước kia từng là một cơ sở của Bộ ngoại giao, nhà khách chính phủ, trường đại học ngoại ngữ và cuối cùng là trường đại học hành chính quốc gia của triều Nguyễn.
(*) Hai người cùng du học với cụ Miến là các cụ Hoàng Trọng Phu và Thân Trọng Huề.
|
Cập nhật ( 16/08/2009 ) |