SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU TRONG CHUỖI DÀI BIẾN ĐỘNG CỦA TỬ SINH
* Thích Như Hùng
I. KHUÔN MẶT CỦA NHỮNG KHUÔN MẶT
Yếu tính tối hậu nào quật tung và truy tìm ra thật thể của hai vấn đề đang phủ trùm, quyết định về sự dị biệt của hai căn nguyên mà con người đang trực diện? Khuôn mặt này đang được lật trái để tô phết những đường nét phĩnh phờ lấp kín uyên thể ban sơ mà thoạt đầu chính nó đã khướt từ quyết liệt về ý nghĩa chung cuộc. Giá trị thật hữu không được hình thành từ những năng lực phù thủy đẩy xô nó vào trạng huống lừa đảo của chính một khuôn mặt mang hai vấn đề này.
Cái giá trị tìm ra ấy không phải lặng yên mặc cho những bao phủ khuynh loát, xúc tác mãnh liệt hay mờ mịt trước những nổi trôi để tạo vị trí bằng sự mơ hồ dệt tưởng của ý niệm. Nó đẩy đưa đè nén làm rung rinh lay chuyển cả tiềm lực đang chôn kín trong tận cùng thẩm sâu vì sức công phá liên tục vọng ngoại xô đẩy nó chùn mình trong đó không một kẽ hở thoát ra. Nó quái đản, lạnh lùng, kinh khiếp như trái bom sắp châm ngòi nổ tung phá hủy toàn diện sự có mặt hay không có mặt và ngay cả cái bóng dáng thoạt hiện chập chờn, lửng lơ đó nữa.
Sự kinh khiếp ấy lôi kéo thân phận con người thi nhau lặn hụp vào những giấc mơ tưởng chừng như không bao giờ gián đoạn. Nó làm hoa mắt, lung lay, rung chuyển những ý lực nào truy tìm khởi nguyên vốn đã không tạo nên hậu quả diệt vong trong từng ý niệm. Và đâu là sự thật về những căn nguyên, căn nguyên của những căn nguyên càng chung một nguyên ủy?
II. CĂN BẢN CỦA KHỔ ĐAU
Sự hiện hữu của con người đồng nghĩa với sự có mặt của khổ đau. Con người vốn ôm trọn, chôn dấu tất cả những tiềm năng vọng động, tác tạo giữa những dị biệt hưng khởi ở nội và ngoại tại. Biến thành đối tượng để ý lực thâu tóm sử dụng, gìn giữ, năng niu tôn quý nó trong sự biến động của thời gian, nhưng không trông thấy được mức độ sinh diệt ngầm chứa trong ấy.
Cái mà ta gọi là bản ngã, hay cá thể đó, nó bao gồm, tổng hợp những năng lực hằng biến về tâm lý, vật lý. Vì thế trong tận cùng bản chất nó vốn mang nguyên lý của vô thường biến đổi. Thông thường con người dùng bản ngã để đo lường đối tượng, nắm bắt, níu kéo, được mất nên phải chuốc lấy hậu quả của khổ đau. Vì lẽ điều mà họ lầm tưởng là thật về bản ngã vốn đã không thật, hư hoại, thì sá gì những yếu tố ngăn che bên ngoài không cùng chung số phận? Dùng ý lực để lôi kéo quá khứ, trôi lăn trong hiện tại, tương lai là điều lầm lẫn tai hại nhứt, bởi lẽ nó vốn năng động và sự thành nếu có vốn không nằm trong sự tưởng chừng ru ngủ về vị trí nào được kết tụ từ thời gian tính.
Càng níu kéo càng rơi vào trạng thái của những đêm trường hoang lạnh chập chờn trong giấc mơ thoáng hiện để vẽ nên khung trời dệt niệm, sau đó còn lại cáichoàng mình thức dậy chợt tỉnh chỉ là giấc mơ. Dù đó là sự phóng ý để rong chơi, nắm bắt, níu kéo đối tượng được hưng động ở bên ngoài hay trong. Những băn khoăn, lo lắng, sầu khổ về sự có mặt của tất cả những vấn đề không phải là điều quan yếu, nếu xem đó là sự móng động của ý thức trước những lay chuyển để tìm ra nguyên lý tối hậu của thức thể. Đau khổ hay hạnh phúc cùng chung một khuôn mặt nhưng sai biệt dị dạng. Và vấn đề nào cũng thế, tự nó mang ý nghĩa tương phản với nhau nếu xem đó là giả hợp. Không khéo sự tưởng chừng vẫn còn đeo đuổi, trừ khi vứt tung tất cả và tất cả không còn làm hề hấn dù đó là tuyệt đỉnh của khổ đau hay tận cùng của hạnh phúc.
III. GIÁ TRỊ THẬT HỮU CỦA HẠNH PHÚC
Tương phản với khổ đau là hạnh phúc. Sự có mặt của Đạo Phật trong ý nghĩa vi diệu nhất là trông thấy trọn vẹn khổ đau để từ đó vén mở thật thể của hạnh phúc. Bởi lẽ khổ đau tuyệt đỉnh cũng có thể là hạnh phúc tuyệt đỉnh, không một hạnh phúc nào không đánh dấu của khổ đau để đạt được. Có rất nhiều loại hạnh phúc trong sự sống nhưng đâu là chân hạnh phúc được tìm thấy trong khổ đau? Một hạnh phúc mà khổ đau đã phải đầu hàng, lắc đầu, run rẩy, trốn chạy.
Thông thường con người cảm nhận được một ít hạnh phúc trong giai đoạn chuyển tiếp, lúc đó họ không còn thấy có sự hiện diện của khổ đau, hoặc giả có lúc cả hai trạng thái đồng xuất hiện một lúc, hoặc trước, sau. Những dấu hiệu này hoàn toàn không chuyên chở được ý nghĩa trung thực về hạnh phúc. Bởi lẽ căn nguyên của nó tạo ra khoái cảm trong chốc lát để đánh lừa ý thức ở giai đoạn chuyển tiếp, lúc đó nó hoàn toàn lãng quên bóng dáng của khổ đau, vì sự lừa dối quá mau chóng nhanh nhẹn nên ta không thấy được sự thật của vấn đề này. Hễ càng tách rời nó ra làm hai thì sự khuấy động của nó càng khủng khiếp như trò chơi cút bắt, ló ra bên này lại bị mất bên kia cứ thế mà hiện diện, nếu không biết cách dung hợp thì sự đáng tiếc lại xảy ra.
Vì thế muốn đạt được hạnh phúc phải tận hưởng tuyệt đỉnh về khổ đau không một lời than oán, ở đây không có nghĩa là điều mặc yên của ý niệm gặt hái về nhân quả, mà chấp nhận để được tận hưởng tuyệt diệu.
Không một hạnh phúc nào tựu thành từ những kẻ trón chạy khổ đau, những ai dám xông pha, mang hạnh nguyện cao cả đối diện, để chuyển hóa thì chính kẻ ấy mời đủ thẩm quyền tìm ra được đâu là chân hạnh phút trong lòng khổ đau của cuộc đời. Đâu là phiền não tức Bồ Đề? Đâu là Thiên Đường trong hiện tại đầy dẫy thống hận? Hành trang để tìm tới cửa ngõ của an lạc chính nhờ trưởng thành từ khổ đau nhưng được un đúc, nuôi dưỡng trở thành chất liệu thăng hoa cao đẹp.
Tất cả chỉ là bóng dáng không thật, cái không thật này ngự trị trong cả, hai, nhưng không hiện hữu nếu kẻ nào vén mở được hoàn toàn cả hai để từ đó dung hợp đối diện trong sự an lành không chùn bước lo sợ. Ý thức được vấn đề này gieo rắc vào tâm thức tạo nên vị trí dừng lại theo sự mê hoặc của từng yếu tố thì chính sự quật khởi này làm thay đổi hoàn toàn trò múa rối của nó.
IV. CHUNG MỘT VẤN ĐỀ
Sự có mặt của khổ đau mặc nhiên tương phản với hạnh phúc. Khổ đau không bao giờ đơn phương tựu thành được nếu không có cái không khổ phán quyết. Như thế sự giả lập để tìm một lý lẽ thật sự vượt ra ngoài, không thể dùng đối tính khác thống chế lại. Bởi lẽ sự giác ngộ về thực trạng của khổ đau chỉ tìm thấy ngay trong cuộc đời, ngoài điều này ra không có được.
Giác ngộ là giác ngộ về hiện trạng của một cái gì, cái ấy là nguyên tố để châm ngòi cho giác ngộ bùng vỡ, có giác ngộ tức là trước đó không được giác ngộ vì do vô minh phong tỏa. Hai vấn đề này cùng chung một khúc quanh giằng co với nhau, nhưng cả hai đều cưu mang lẫn nhau. Vì thế trong bản chất nó vốn không hẳn như thế. Nó chính là sự phân tách theo giai tầng quan niệm của ý thức, không khéo ta lại đặt nó ở vị trí khác cách xa với thực hữu nên mãi dong ruổi tìm cầu, thật ra nó nằm ngay trong mọi biến hiện của từng chuyển dịch. Điều cần yếu xoay thẳng đến đối diện, ngắm nhìn, rong chơi thanh thoát trong mọi ngõ ngách của vô cùng.
Đứng bao giờ đặt nó thành đối tượng có từ bên ngoài và xa lạ với chính ta, như thế nó sẽ lừa dối và xúi giục ta nhiều hơn nữa. Ý nghĩa thâm sâu của phiền não tức Bồ Đề không phải là điều cách biệt, chỉ có sự chuyển hóa để tựu thành mà thôi, ngay trong triền phược trôi lăn này mới có được hạnh phúc thật sự.
Sự dung dị và sai biệt của nó không còn là then chốt, nếu trải dài tâm tư xông thẳng vào trong tận cùng của trạng huống để nó phải tan loãng, còn lại ánh sáng nhiệm mầu được đúc kết từ đó. Đâu là bèo bọt của khổ đau và hạnh phúc?
Phải đập phá tan hoang nghiền nát nó ra từng mảnh bụi dù đó là khổ đau hay hạnh phúc, để thấy rằng nó vô nghĩa như chính cái vô nghĩa mà nó đã ru ngủ ta trong vô lượng kiếp và để thấy rằng sự thật của những cái mà ta cho là thật bổng như sương tan trên đầu ngọn cỏ. Cuối cùng chỉ còn lại “ta van cát bụi bên đường, dù nhơ dù đực đừng vương gót này”.
Cập nhật ( 16/06/2012 )