Người Việt Nam Thương Mẹ Kính Cha
* Thích Minh Châu
Qua Ca Dao Tục Ngữ
Mùa Vu Lan đối với người Việt Nam, nhất là người Phật tử, là một mùa báo hiếu, một mùa mà các người con, nhớ đến công ơn sanh thành của mẹ cha và muốn làm một cái gì tốt đẹp để đền đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ.
Nhớ ơn cha mẹ và báo hiếu là những cảm giác những suy tư, những việc làm đã in sâu đậm trong lòng người Việt Nam, và đã được thể hiện linh động và triền miên, ngang qua các câu ca dao và tục ngữ mà chúng ta đã tìm thấy, tràn ngập trong các thôn quê vườn xóm.
Ðâu đâu cũng được đề cao công cha như núi cao, nghĩa mẹ như biển cả:
“Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là đạo con.”
hay:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Ðáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Ðội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.”
hay là:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.”
“Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.”
“Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.”
“Mẹ già ở tấm lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”
Lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam thường hay gắn liền với các hiện tượng thiên nhiên, nên chúng ta không thấy làm lạ nhiều câu ca dao đã dùng mặt trăng mặt trời để nói lên lòng thương mến cha mẹ:
“Ðêm khuya trăng rụng xuống cầu,
Cảm thương cha mẹ, giãi dầu ruột đau.”
hay là:
“Biển đông còn lúc đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.”
Cũng vì thương cha mẹ, nên người con không bao giờ quên cầu khấn Phật trời cho cha mẹ luôn luôn được sống gần mình:
“Ðêm đêm khấn nguyện Phật trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.”
“Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá,
Ngó ra ngoài biển, thấy cặp cá đang đua,
Ði về lập miếu thờ Vua,
Lập trang thờ mẹ, lập Chùa thờ cha.”
Cha mẹ đã săn sóc cho con từng miếng cơm manh áo, thời những người con khi cha mẹ về già cũng phải sáng viếng tối thăm, tìm của ngon vật lạ phụng dưỡng cha mẹ:
“Muốn cho gần mẹ gần cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi.”
Thỉnh thoảng chúng ta chứng kiến cảnh người con gái không chịu đi lấy chồng, vì không muốn xa cha mẹ:
“Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con.”
Người con gái đi lấy chồng xa cũng bị trách:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?”
Nhưng mình có hiếu với cha mẹ, thời con cháu mình sẽ có hiếu với mình. Ðây là luật đáp ứng thường tình, nhưng không vì vậy mà giảm bớt tình của lòng thương mẹ kính cha của người Việt Nam:
“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì
Ðừng mong con hiếu làm gì uổng công.”
hay là:
“Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Ngỗ nghịch nào con có khác chi!
Xem thử trước thềm mưa xối nước
Giọt sau giọt trước chẳng sai gì.”
“Ở đời ai cũng có lần
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người xưa khó nhọc nuôi mình
Khác chi mình đã hết tình nuôi con.”
Nhưng người con cũng biết cha mẹ thương con không phải giống nhau, cha có lòng thương của người cha, mẹ có lòng thương của mẹ, nên người con cũng biết phân biệt:
“Mẹ dạy thì con khéo,
Bố dạy thì con khôn.”
“Mồ côi cha ăn cơm với cá,
Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm.”
Trong câu ca dao này, chúng ta đã nhận thấy sự phân biệt của người con về cảm tình đối với cha khác, đối với mẹ khác. Nếu như cha có mất đi, thì đã có bà mẹ săn sóc cho con, cho con ăn cơm ăn cá đầy đủ. Nhưng chẳng may mẹ mất đi người con mới thật khốn khổ, phải đi lót lá mà nằm. Và vì vậy, nên chúng ta không có lạ gì, khi người con gần mẹ hơn cha, thương mẹ hơn thương cha. Chúng ta được đọc rất nhiều câu ca dao và bài thơ tán dương lòng mẹ thương con, lòng con nhớ mẹ:
“Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.”
“Ai rằng công mẹ như non,
Thật ra công mẹ lại càng lớn hơn.”
“Lòng mẹ như bát nước đầy,
Mai này khôn lớn, ơn này tính sao.”
“Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.”
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.”
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.”
“Mẹ ngảnh đi, con dại,
Mẹ ngảnh lại con khôn.”
“Mẹ giàu con có, mẹ khó con không.”
“Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”
“Bồng cho con bú một hồi,
Mẹ đã hết sữa, con vòi con la.”
“Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.”
“Những khi trái nắng trở trời,
Con đau mà mẹ đứng ngồi không yên.”
“Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.”
Vì lòng thương mẹ dạt dào, vì nhớ đến công ơn bú mớm, sinh thành, nuôi nấng, nên người con luôn luôn tưởng đến mẹ:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
“Giữa đêm ra đứng giữa trời,
Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn.”
“Trải bao gian khổ không sờn,
Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền.”
Ðối với công ơn trời biển của mẹ, các người con luôn luôn tìm cách báo đáp ơn sâu nghĩa nặng và làm tất cả những gì có thể làm được để đền ơn mẹ:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”
“Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.”
“Ðói lòng ăn đọt chà là,
Ðể cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.”
“Ðói lòng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xưa.”
“Dấn mình gách nước làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân.”
“Vô Chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.”
“Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy gì đền nghĩa khó khăn,
Lên non xắn đá, xây lăng phụng thờ.”
“Ðây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ôi, đây ngọc với đây lòng,
Ðây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong.”
Ai không làm tròn bổn phận người con đối với mẹ, thì được nghe lời trách móc:
“Ði đâu bỏ mẹ ở nhà,
Gối nghiên ai sửa, chén trà ai dâng.”
Vì người con hiếu được tình thương của mẹ đối với con, những công lao mẹ đã trải qua để nuôi con cho khôn lớn, nhất là những hy sinh lo lắng của mẹ chiều chuộng con, săn sóc con, chịu cực khổ vì con, nếu chẳng may người mẹ đã qua đời không con nữa, thời người con đau khổ xót thương là chừng nào.
Nhiều bài thơ đã nói lên nỗi lòng của người con mất mẹ và sau đây là một nỗi lòng của một thiếu nữ mất mẹ:
“Năm xưa tôi còn nhỏ,
Mẹ tôi đã qua đời.
Lần đầu tiên tôi hiểu,
Thân phận kẻ mồ côi.”
“Quanh tôi ai cũng khóc,
Im lặng tôi sầu thôi,
Ðể dòng nước mắt chảy,
Là bớt khổ đi rồi….”
“Ðộ nhỏ tôi không tin,
Người thân tôi sẽ mất
Hôm ấy tôi sững sờ
Và nghi ngờ trời đất.”
“Từ nay tôi hết thấy
Trên trán mẹ hôn con
Những khi con phải đòn
Ðau lòng mẹ la lẫy.”
“Kìa nhà ai sung sướng
Mẹ con vỗ về nhau
Tìm mẹ con không có
Khi buồn biết trốn đâu.”
Hoàng hôn phủ trên mộ,
Chuông Chùa lạnh rơi rơi,
Tôi thấy tôi mất mẹ,
Mất cả một bầu trời!”
Dẫu cho người con thương cha không bằng thương mẹ, nhưng chẳng phải như vậy mà người con quên công ơn của người cha, vì vai trò của người cha rất là đặc biệt trong gia đình:
“Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.”
“Khôn ngoan nhờ ấm ông cha,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ,
Ðạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem kính yếu mà thờ từ nghiêm.”
“Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha mất, gót con đen sì.”
Hình ảnh người cha tuy đã già rồi vẫn làm lụng nuôi con, cũng để lại trong tâm trí người con một nỗi biết ơn vô hạn:
“Cha tôi tuy đã già rồi,
Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà,
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,
Cha tôi đã dậy để ra đi làm.”
Và cũng là một hình ảnh cảm động, khi mẹ đã mất rồi, người cha đóng vai gà trống nuôi con lo cho con uống sữa:
“Nghiêng bình mở hộp nút ra,
Con ơi, con bú cho cha yên lòng.”
Tuy vậy, vai trò giáo dục trong gia đình, người cha đặt nặng hơn, và giáo dục thường hay nghiêm khắc và như vậy ảnh hưởng tốt đẹp cho người con, khi được một người cha nghiêm minh dạy bảo, có tác dụng hơn người mẹ nhiều:
“Mẹ đánh một trăm, không bằng cha ngăm một tiếng.”
Qua Truyền Ký
Vai trò giáo dục của người cha lại càng nổi bật hơn trong câu chuyện của Nguyễn Trãi được cha là Phi Khanh khuyên bảo; nhờ vậy, trở thành là một nhà ái quốc văn võ kiêm toàn, phò hộ cho Lê Lợi đánh đuổi quân Minh và xây dựng tổ quốc Việt Nam.
Phi Khanh, thân sinh của Nguyễn Trãi, vì phò Hồ Quý Ly chống lại quân Minh, nên khi Hồ Quý Ly thất trận bị bắt, Phi Khanh cũng bị bắt theo và áp giải đi Nam Kinh để tù đày. Hai con trai của Phi Khanh là Nguyễn Trãi và Phi Hùng cũng đi tiễn đưa Phi Khanh lên đến cửa Nam Quan. Bây giờ Phi Khanh đã biết thân mình già yếu, nước mất nhà tan, lại bị tù đày chắc sống cũng không bao lâu. Thấy hai con lẽo đẽo theo sau từ xa, thương cha đều khóc đỏ ngầu cả hai con mắt. Phi Khanh biết Nguyễn Trãi có chí lớn, có khả năng làm nên đại sự sau này, nên khuyên Nguyễn Trãi như sau: “Ta già rồi, chết cũng không hối hận nữa. Duy bình sinh, ta rất ưa thích sơn thủy núi Bái Vọng ở chốn cố hương. Vậy để một mình em con đi theo ta, hễ ta có chết thì nó nhặt lấy xương đem về chôn ở núi ấy là đủ rồi; còn con, ta khuyên con nên trở về. Lâu nay xem thiên văn, ta biết sau đây hơn mười năm, tất có một vị chân chúa nổi lên ở phương Tây, con là người có học có tài, bây giờ nên đi theo vị chân chúa để rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới chính là đại hiếu. Lọ là phải cứ đi theo cha, khóc thút thít như đàn bà ấy mới là hiếu sao?”
Nhờ lời khuyên của cha là Phi Khanh, Nguyễn Trãi trở về, sau tìm Lê Lợi phò giúp, đánh đuổi được quân Minh, dành lại độc lập tự do cho xứ sở, vừa trả thù được cho cha.
Người cha đã đóng đúng vai trò giáo dục của mình là giáo dục con cái trở thành những người công dân giúp nước lợi dân. (Nguyễn Trãi, Trúc Khê, Tao Ðàn, trang 15).
Ngang qua các câu ca dao, các câu cách ngôn, các mẫu chuyện, chúng ta đã thấy lòng người Việt Nam đối với cha mẹ như thế nào, lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam đã được truyền thống dân tộc Việt Nam hun đúc, tác thành, ăn sâu vào tâm khảm của người Việt Nam. Ngoài ra, người Phật tử Việt Nam lại được đạo Phật dạy thêm nhiều về chữ hiếu soi sáng thêm nghĩa vụ làm cha mẹ, nghĩa vụ làm con, nhờ vậy chữ Hiếu lại càng ảnh hưởng sâu đậm vào người Phật tử Việt Nam, vào tâm tư hành động của người Việt Nam.
“Tâm Hiếu là tâm Phật,
Hạnh Hiếu là hạnh Phật.”
Cập nhật ( 02/09/2012 )