THIỀN ĐẠO VĂN CHƯƠNG QUA KỆ NGỮ LỤC CỦA VIÊN CHIẾU THIỀN SƯ (tiếp theo)
* PGS.TS. Nguyễn Công Lý
Sau đây là tư tưởng Thiền uẩn súc được thể hiện qua ngôn ngữ thơ diễm lệ, giàu hình ảnh văn chương trong ngữ lục Tham đồ hiển quyết 參徒顯決 (Chỉ rõ bí quyết đạo Thiền cho môn đệ) của thiền sư:
3.1 Một hôm, sư Viên Chiếu đang ngồi trước thềm, có vị tăng đến hỏi: “Phật và Thánh, nghĩa thế nào?”. Sư đáp: “Ly hạ trùng dương cúc, chi đầu thục khí oanh” (Tiết trùng dương cúc vàng dưới giậu, xuân ấm về oanh hót đầu cành). Vào tiết trùng dương (trùng cửu) tức ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch, lúc đất trời đã sang thu thì hoa cúc rực rỡ khoe sắc tỏa hương.
Cũng vậy, khi xuân về, khí trời ấm áp thì chim hoàng oanh mới cất tiếng hót líu lo. Nhưng vị tăng kia vẫn chưa hiểu, xin thiền sư chỉ giáo lại, sư đọc tiếp: “Trú tắt kim ô chiếu, dạ lai ngọc thố minh.” Kim ô là con quạ vàng, chỉ mặt trời; Ngọc thố là con thỏ ngọc, chỉ mặt trăng. Hai câu này có nghĩa là: ngày thì vầng ô chiếu sáng; đêm thì bóng trăng rạng soi.
Qua hai câu trả lời như trên, Viên Chiếu đã bàn về Phật và Thánh như thế nào? Đây là biện pháp “cơ phong” (cơ: máy, khéo léo; phong: mũi giáo) của Thiền tông. Những lời đáp của vị thầy thông thường không luận chứng trực tiếp vào giáo lý, cũng không trả lời trực diện câu hỏi của trò mà dùng những hình ảnh ngẫu nhiên, đột ngột nhằm kích thích trực giác của người hỏi. Điều đáng chú ý, trong ngữ lục, để bàn về những vấn đề tư tưởng, giáo lý rất uyên nguyên, trừu tượng và khô khan như: thể và dụng, chân và vọng, sinh và tử, sắc và không, vô thường và hằng thường, Chân như, Niết-bàn, Bồ đề, Phật tính, v.v… hay sự giống và khác nhau giữa Phật và Thánh, quan hệ giữa Phật và chúng sinh, được đáp bằng những câu thơ rất bóng bẩy, giàu hình ảnh đẹp và gợi cảm. Để qua đó, nói lên một chân lý, cụ thể là bản thể, chân như, Niết-bàn.
Phật tính không phải là một cái gì cao xa, mầu nhiệm. Phật tính có sẵn trong tâm của mỗi người, ở trong tất cả mọi vật, kể cả trong con chim hoàng oanh, trong bông hoa cúc. Chân lý đó cũng hiển hiện rõ ràng như quy luật của tự nhiên. Quy luật tự nhiên cũng là quy luật của sự sống con người. Mùa thu hoa cúc nở, mùa xuân chim oanh hót, ban ngày có mặt trời soi tỏ, ban đêm có ánh trăng chiếu sáng. Những hiện tượng tự nhiên ấy biểu lộ rất rõ và tất cả đều có ích cho con người, tùy thời điểm mà chúng có những biểu hiện khác nhau.
Phật và Thánh cũng vậy, dù tùy duyên mà hóa độ có thể khác nhau, nhưng cuối cùng đều đi đến một đích, một cứu cánh. Đây là tinh thần Phật và Thánh phân công hợp tác, tinh thần “đồng quy nhi thù đồ”, một quan niệm thể hiện sự dung hợp giữa Thiền và Nho vào thời Lý – Trần. Nếu người học đạo nhận thức rõ thì sẽ giác ngộ, hiểu được bản tâm, thấy được tự tính. Còn nếu chưa thấu triệt lẽ ấy, còn câu chấp vào hình thức, vào quy chế lễ nghi khe khắt máy móc với thành kiến thiển cận, cho dù người đó có trì giới, ăn chay, tụng kinh niệm Phật đi nữa cũng không bao giờ đạt được bản thể chân như, thật chẳng khác nào như người nông dân ôm cây mà đợi thỏ!
3.2 Có vị tăng hỏi: “Tất cả chúng sinh từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu”? Sư Viên Chiếu trả lời: “Manh quy xuyên thạch bích, ba miết thướng cao sơn”. (Con rùa mù xoi vách đá, con ba ba què trèo núi cao). Câu trả lời bằng thơ là một dạng công án Thiền dùng hình thức nghịch ngữ phi lôgic. Thực tế, con rùa mù không thể dùi xoi được vách đá, con ba ba què không thể trèo lên núi cao. Thế thì, người đặt câu hỏi con người từ đâu mà hiện hữu, khi chết đi về đâu là chuyện vớ vẩn, hỏi vô ích chẳng khác nào như con rùa mù và con ba ba què kia.
Điều người mới học đạo nào cũng biết bài giảng “Thập nhị nhân duyên” đức Phật từng dạy: Con người do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) duyên hợp mà thành, lúc mất trở về lại nơi ban đầu sinh ra, tức về lại tứ đại. Nếu nhận thức sâu hơn, người hỏi chưa rõ lẽ Tam minh làm sao biết mình từ đâu tới và chết đi về đâu.
Tam minh là: Túc mạng minh (biết trước kia mình ở đâu); Thiên nhãn minh (biết được thấy được sau khi mình nhắm mắt xuôi tay sẽ đi về đâu); Lậu tận minh (không biết quá khứ mình đã tạo ra nghiệp gì thì làm sao biết tương lai sẽ dẫn mình đi tới đâu). Con người nếu chưa tỉnh ngộ, còn trong mê muội làm sao biết được quá khứ và tương lai của mình, giống như rùa mù, ba ba què với việc làm vô ích, vượt quá khả năng. Cho nên câu hỏi trên của vị tăng kia là câu hỏi vô ích, dù thiền sư trả lời với kiến giải tường minh đi nữa thì người hỏi cũng không thể nào hiểu được, nên mới dùng hình ảnh thực tế để đánh vào trực giác, nhằm giúp người hỏi tự nhận thức lại về mình, để cố gắng công phu tu tập hành trì nhiều hơn mới mong giác ngộ.
3.3 Đây là một hình ảnh khác, khi có vị tăng hỏi: “Lý không phân biệt được, tướng không thể thấy được, vì sao mà không thấy”? Viên Chiếu trả lời bằng hai câu thơ tả cảnh thật gợi cảm:“Uyển trung hoa lạn mạn, ngạn thượng thảo ly phi (Hoa rực rỡ vườn hồng, cỏ thưa thớt bờ sông). Người hỏi nhờ đã đọc kinh luận nên ít nhiều hiểu được hiện tượng thực tướng trong tầm mắt của mình, chúng hiển hiện bao trùm khắp cả, nhưng anh ta vẫn chưa phân biệt cái nào thuộc về lý (tâm), cái nào thuộc về tướng (thân) và thắc mắc tại sao không thấy không biết chúng? Câu thơ trả lời của Viên Chiếu đã dùng hình ảnh thực tướng của tự nhiên để khơi gợi người hỏi, giúp anh ta phân biệt lý và tướng (nhưng xét đến cùng, nếu hành giả còn phân biệt là còn đối đãi nhị nguyên, nên chưa đạt đến cứu cánh, muốn triệt ngộ hoàn toàn cần phải đạt đến tâm và pháp nhất như mới thông tỏ).
Ở đây, cái nhìn thấy trước mắt là hoa khoe sắc màu rực rỡ, là bờ cỏ xanh thưa thớt, nhưng cần nhận thức rõ ràng, nếu không khéo nhận thấy làm sao chỉ ra được tâm hằng giác hằng trí. Hoa dù đang rực rỡ khoe sắc trong vườn, cỏ dù đang lưa thưa ngoài nội, tất cả đều là những cái có thật trong hiện thực khách quan (thực tướng) mà mắt người nhìn thấy. Nhưng chúng có tồn tại mãi không? Theo quy luật thời gian, hoa sẽ tàn, cỏ sẽ héo. Như thế thực tướng cũng chính là giả tướng. Vấn đề ở chỗ người học đạo cần phải đạt đến “cái tâm không phân biệt, tâm nhất như” mới nhận chân thể tính, đến lúc này, dù nhìn thấy hoa hay cỏ cũng là một mà thôi.
Vì thế, vị tăng lại hỏi: “Tuế hàn quần miêu lạc, Hà dĩ khả tuyên dương”? (Năm lạnh các mầm thối, lấy gì để khoe xinh?), bởi trước đó, Viên Chiếu đã dùng hình ảnh hoa khoe sắc rực rỡ nên vị tăng mới hỏi mùa lạnh các mầm đều thối hết lấy gì mà nở hoa khoe sắc? Mỗi khi hành giả hết vọng niệm lăng xăng (tức các mầm đã thối hết), đạt tâm lặng lẽ, cần gì nói đến tâm trí tuệ tịch tĩnh. Đến đây, Viên Chiếu biết vị tăng kia đã sở đắc, nhận chân vấn đề lý và tướng nên nói: “Mừng ông đã thấu suốt, cũng chẳng vui hay sao? Trả lời mà không trả lời, bởi đây là lời ấn chứng của thiền sư cho vị tăng kia về sự giác ngộ về lý và tướng, tâm và thân.
3.4 Một lần khác, có vị tăng hỏi: “Kiến tính thành Phật, nghĩa này thế nào”? Sư đáp: “Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát, phong xuy thiên lý phức thần hương” (Cây khô gặp Xuân hoa đua nở, gió thổi hương thần thơm rất xa). Vị tăng nói: “Đệ tử chưa hiểu, xin thầy chỉ lại”. Sư đáp: “Vạn niên già tử thụ, thương thúy tủng vân đoan” (Muôn năm cây cà ấy, xanh tươi mấy tầng mây). Thấy được bản tính, rõ được bản tâm, Phật tính liền hiển hiện, tức thành Phật. Ý này trong kinh văn và cũng là tông chỉ của pháp môn thiền đốn ngộ:Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.
Câu đáp của Viên Chiếu dùng hình thức nghịch ngữ qua cách biểu đạt giàu hình ảnh diễm lệ, bởi theo lẽ thường, cây khô đã chết thì sao trổ hoa được, dù đó là mùa Xuân! Hương thần là hương mầu nhiệm. Gặp tiết Xuân, cây khô trổ hoa tỏa hương theo gió bay đi rất xa. Viên Chiếu đã dùng nghịch ngữ để khai thị cho vị tăng về nghĩa của “kiến tính thành Phật”. Đó là diệu dụng không thể lường nổi.
Cây khô là hình ảnh hiện dụ chỉ cho ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mê muội của con người, nhưng khi tu tập giác ngộ sẽ kiến tính (thấy rõ bản tính chân như) tức thành Phật, chẳng khác nào cây khô gặp tiết xuân sẽ nở hoa, hương thơm theo gió bay đi khắp nơi. Vị tăng vẫn chưa hiểu, xin chỉ lại, sư đáp: “Muôn năm cây cà ấy, xanh tươi mấy tầng mây”. Cây cà trong vườn là hình ảnh hiện dụ ai cũng thấy, để chỉ cho thân mê muội chẳng có giá trị gì, nhưng nó xanh tốt vượt đến mây xanh, tức nếu gặp thời tiết nhân duyên nó sẽ tốt tươi, y như thân con người nếu gặp duyên sẽ giác ngộ kiến tính thành Phật. Điều đó, có nghĩa từ mê đến giác con người có những diệu dụng phi thường, diệu dụng này con người không thể hiểu, không thể biết hết được nếu tâm chưa tịch tĩnh.
3.5 Tăng lại hỏi: “Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức”? Sư đáp: “Viễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải, ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung” (Xa ném Thái sơn qua biển Bắc, ngước tung cây gậy đến cung trăng). Câu hỏi của vị tăng lấy từ Chứng đạo ca của thiền sư Huyền Giác (Trung Quốc). Đáp lại câu hỏi trên, Viên Chiếu đã dùng hình ảnh trong thực tại: núi Thái sơn, biển Bắc, cung Thiềm. Núi Thái sơn cao lớn, đâu phải là vật nhỏ mà tay người có thể cầm để ném nó xa tới tận biển Bắc? Thiềm cung là cung trăng, cách quá xa trái đất chúng ta, làm sao có thể ngước lên để tung cây gậy đến đó? Nhưng hành giả nếu thông tỏ được một câu của Phật Tổ, tức đã chứng được diệu dụng phi thường thì có thể vượt qua một cách dễ dàng những tầm thường của thế gian.
Ném núi Thái sơn đến biển Bắc, tung cây gậy đến cung trăng là hành động vượt lên trên xa đến siêu trăm ức cây số không thể đếm được. Thông tỏ một câu của Phật Tổ là ngộ được tất cả nghĩa lý siêu bách ức kinh văn. Khi xưa ở Trung Quốc, lục Tổ Huệ Năng đâu có đọc được chữ, vậy mà nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” hốt nhiên đại ngộ và được ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ấn chứng truyền y bát làm Tổ sư thứ sáu Thiền tông Đông độ. Ở Việt Nam, Trần Thái Tông cũng đại ngộ nhờ câu này khi đọc tụng kinh Kim cương Bát nhã ba- la- mật mà nhà vua – thiền sư có ghi lại trong bài tựa tác phẩm Thiền tông chỉ nam. Đó chính là ý nghĩa của “một câu mà sáng tỏ siêu trăm ức”.
3.6 Lại hỏi: “Bất hướng Như lai cầu diệu tạng, bất cầu Tổ diệm tục đăng chi”. (Chẳng hướng Như lai cầu diệu tạng, không mong đuốc Tổ nối đèn chi). Ý câu này là thế nào? Sư đáp: “Thu thiên đoàn tử lệ, tuyết cảnh mẫu đơn khai” (Trời thu hoàng oanh hót, trong tuyết mẫu đơn khoe). Người học đã dẫn lại lời trong sách thiền Trung Hoa để hỏi, muốn biết ý nghĩa của việc không làm người tiếp nối chư Tổ, không cần diệu tạng kinh của Phật. Mục đích của việc tu hành là hướng về Tổ, về Phật để cầu tìm giác ngộ, giải thoát, nhưng tại sao ở đây lại nói không cầu Phật, không tiếp nối Tổ? Viên Chiếu đáp lại bằng hai câu rất thơ để khơi dẫn người học thoát ra khỏi con đường mòn cũ bằng một nghịch ngữ. Chim hoàng oanh cất tiếng líu lo mỗi độ xuân về, hoa mẫu đơn trổ bông khoe sắc lúc sang hè. Vậy mà, ở đây sư lại nói chim oanh hót lúc trời thu, hoa mẫu đơn nở trong tuyết mùa đông. Nói không nối đèn Tổ, không cầu Phật là câu nói ngược với ý người xưa, không có ý nghĩa thật, thế mà người sau lấy đó làm chuẩn để noi theo là sai lầm, chẳng khác nào oanh hót mùa thu, mẫu đơn nở trong tuyết. Đây còn là tinh thần vô trụ (không bám víu), phá chấp của Thiền tông.
Diệu Nhân (1041-1113) từng phát biểu: “Thiền Phật bất cầu, đỗ khẩu vô ngôn” (Thiền Phật chẳng cầu, mím miệng ngồi yên); hay như Quảng Nghiêm (1121-1190) đã khuyên người tu hành đừng đi theo vết chân của Như lai đã đi Hưu hướng Như lai hành xứ hành; hoặc như Điều ngự Giác hoàng Đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông (1258-1308) từng nói : “Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” (Trước cảnh vô tâm, đừng hỏi Thiền) chính là sự thể hiện tinh thần phá chấp triệt để, không bám víu đó.
3.7 Tăng hỏi: “Tâm pháp cả hai đều quên, tính tức chân. Thế nào là chân”? Sư đáp: “Vũ trích nham hoa Thần nữ lệ, phong xao đình trúc Bá Nha cầm” (Hoa núi mưa sa Thần nữ khóc, tre sân gió thổi Bá Nha đàn). Vị tăng muốn hiểu thế nào là chân, mà muốn hiểu chân cần phải nhận rõ tâm và pháp. Tâm là nội tâm, pháp là ngoại cảnh. Nếu hành giả nhận thức giữa nội tâm và ngoại cảnh đều không dính mắc, tức không còn phân biệt chúng, thì đó là chân. Thể tính là chân, chân là thể tính. Để trả lời câu hỏi thế nào là chân, Viên Chiếu đã dùng hình ảnh hoa trên núi dưới trời mưa, tre trước sân khi gió thổi, qua những điển cố từ sử sách Trung Hoa.
Rõ ràng hoa trên núi dưới trời mưa, giọt mưa đọng lại trên cánh hoa chẳng khác nào như giọt nước mắt của Thần nữ. Khi gió thổi, tre trúc trước sân cọ xát vào nhau vang lên âm thanh trầm bổng, giống như tiếng đàn của Bá Nha gãy cho Chung Tử Kỳ nghe, lúc ấy chí của Bá Nha để ở nơi núi cao, ở dòng nước chảy. Thế thì, câu trả lời dùng hình ảnh ví von sinh động như thế có giải đáp được gì về câu hỏi của người học? Những hình ảnh: hoa trên núi, mưa rơi, giọt mưa đọng trên cánh hoa là hình ảnh có thật, là thực tướng. Người nhìn thấy cứ ngỡ đó là những giọt nước mắt khóc than của vị Thần nữ. Cũng vậy, hình ảnh gió thổi, tre trúc, âm thanh cọ xát là hình ảnh có thật, nhưng người nghe lại tưởng tượng đó là tiếng đàn của Bá Nha. Cái ngỡ là sự liên tưởng hay tưởng tượng ấy chỉ là vọng, không thật. Nói cách khác muôn sự muôn vật trong thế giới hiện thực khách quan (vạn pháp) đều bộc lộ hình tướng thật của nó, hình tướng thật này là chân, nhưng do con người tưởng tượng nên không nhận ra tính chân. Như vậy, nếu không tưởng tượng thì nhận rõ cái chân, còn nếu khởi tưởng thì sẽ mất hết tính chân, sẽ không thấy được thực tướng của vạn vật.
4. Tóm lại, trong bài kệ bốn câu và phần nhiều các câu trả lời bằng hình thức thơ trong “Tham đồ hiển quyết”, Viên Chiếu đã dùng những hình ảnh nghệ thuật như ví von so sánh, ẩn dụ sinh động, liên tưởng thú vị để giải đáp chân lý, gợi mở những tư tưởng uyên áo, sâu sắc của Thiền. Bài kệ thị tịch và ngữ lục “Tham đồ hiển quyết” vừa là tác phẩm triết học tư tưởng, lại vừa là áng văn chương tuyệt diệu với đạo lý u huyền. Nếu người đọc chưa từng trải nghiệm, chưa có vốn tri thức về Thiền về Phật thì khó lòng nghiền ngẫm để nhận ra chân lý nhiệm mầu mà thiền sư đã gởi gắm qua hình thức ngôn ngữ thi ca lung linh ấy.