GIA TỘC CÔNG TỬ BẠC LIÊU NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT
* Hồng Hạnh
Còn nhớ trong một buổi bàn luận chuyện xưa tích cũ xứ Bạc Liêu, ông Trần Phước Thuận, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu nói với tôi rằng: “Trước đây nói đến công tử Bạc Liêu là nói đến khái niệm ăn chơi vô độ, nhưng dần theo thời gian khái niệm “công tử Bạc Liêu” đã trở thành khái niệm mỹ học, tượng trưng cho tính cách phóng khoáng, mến khách Nam bộ”. Chợt nhớ, đã từ lâu, người đời thường gán cho những tay ăn chơi xả láng, bốc trời biệt danh – Công tử Bạc Liêu. Và bất luận ai khi về thăm Bạc Liêu đều bảo về xứ Công tử. Rồi bất luận một hành động nào đó của dân xứ bản này đều được người xứ khác buông một câu – Đúng là dân công tử (!)..
…Rõ ràng, có thật đã phủ lên mảnh đất này một sức hấp dẫn hiếm thấy. Ngót một thế kỷ đã rôi qua, thế nhưng, gia tộc của Công tử Bạc Liêu vẫn làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của báo chí trong nước lẫn nước ngoài. Qua những tư liệu trước đây, người xứ khác biết về Công tử Bạc Liêu với những giai thoại như đốt tiền nấu chè đậu xanh, đi một lúc 6 chiếc xe lôi hoặc là người mua máy bay đầu tiên ở Đông Dương. Vậy đâu là sự thật của những giai thoại đó. Có thật là gia tộc công tử Bạc Liêu giàu đến mức ấy hay không. Bây giờ, gia tộc của Công tử Bạc Liêu ai còn ai mất. Xin chép lại đây những điều tôi biết qua mối duyên may được hầu chuyện, được tới lui với người nhà “Công tử Bạc Liêu”.
Hội đồng Trạch – nhà kinh doanh tầm cỡ của Nam Bộ
Theo trí nhớ của một số cụ già sống kỳ cựu ở Bạc Liêu thì hồi đó – cách ngót thế kỷ – ở Bạc Liêu có rất nhiều đại điền chủ. Họ được chia thành ba bực. Song, ở bực thứ nhất – các đại gia, xuất thân từ con bá hộ chỉ điếm ngót trên đầu ngón tay. Đó là: Trần Trinh Trạch, Châu Văn Quai (Tô Quai – chủ tu muối), Ngô Phong Điều (Hội đồng Điều), Chung Bá Vạn (chủ nhân rạp hát danh tiếng một thời “Chung Bá”, bây giờ là rạp hát Cao Văn Lầu). Bực thứ hai mới đến: Tô Lai Thêm (cha “cậu” Hai Lũy), Đốc tổng Hậu, Hội đồng Sổn (huyện Sổn), Cao Minh Thạnh (thân sinh cụ chí sĩ Cao Triều Phát). Bực thứ 3 mới đến các “điền manh” – số này thì không thể nhớ hết tên. Trong ba bực vừa nêu thì vừa giàu, vừa có thế lực chỉ có gia tộc ông hội đồng Trạch – cha của “Công tử Bạc Liêu” Trần Trinh Huy. Và theo trí nhớ của người già, chỉ có con cái của Hội đồng Trạch mới ăn chơi và đủ sức chơi ngông theo kiểu Công tử. Chứ cỡ như con Huyện Sổn cũng chỉ dám chơi ngông “bực thấp” như đập mái (lu đựng nước của người Nam Bộ) của dân nghèo.
Ông Hội đồng Trạch quê ở Cái Dầy, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, sinh năm 1872. Ông vốn là một người kín đáo nhưng khôn lanh. Ông có cả ngàn mẫu ruộng hương hỏa ở Cái Dầy, rồi hàng ngàn khoảnh khác ở miệt biển Vĩnh Châu. Năm 42 tuổi, Toàn quyền Pháp cất nhắc ông làm Thư ký hậu bổ, giúp việc cho tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng lúc bấy giờ. Những năm đầu 30, khi Pháp vơ vét của cải dân xứ thuộc địa, giới đại địa chủ cũng không thoát khỏi cảnh bị móc hầu bao. Song, nước “Đại Pháp” đã gán cho một cái tên mỹ miều – “Miền Nam phụng bạc”. Riêng đối với Hội đồng Trạch, đây lại là một cú áp phe chính trị kiểu Lã Bất Vi đầy béo bở. Không hiểu ông “phụng” bao nhiêu, chỉ biết không bao lâu sau, ông “hội đồng” đã là quan 5 (dù chỉ là loại quan hàm) – nghiễm nhiên trở thành ông lớn. Ngay cả những năm sau, các viên chức Pháp đến Bạc Liêu nhậm chức – cỡ Chánh án Tòa án – đều phải đến chào Hội đồng Trạch. Và cũng vì vậy, thư ký ghi chép sổ sách. Coi sóc giấy tờ cho ông là một lục sự Tây hẳn hoi. Chính điều này càng là một thuận lợi cho việc mua bán đất điền của gia tộc họ Trần.
Chuyên làm giàu của Hội đồng mời đến chơi cũng vừa mừng, vừa lo. Mừng vì không phải dễ gì được kết thân với một gia tộc quyền thế bậc nhất này. Còn nỗi lo lại là… sợ đánh bạc. Hội đồng Trạch vốn là một tay cờ bạc khá, đêm nào nhà ông Hội đồng cũng sáng đèn đến tận khuya. Khách không có tiền ông bảo gia nhân mở tủ lấy tiền cho khách mượn với một câu nhẹ hều: “lấy tiền của ông mà chơi, tính toán gì, miễn khách vui thì gia chủ mừng”. Tiếng là “lấy chơi” không tính, thế nhưng, đã có không biết bao nhiêu đất đai, ruộng vườn của các địa chủ nhỏ rơi vào tay Hội đồng Trạch một cách hợp pháp vì… thua bài. Thiệt là một chuyện khó tin khi một ông giàu có căn cơ như Hội đồng Trạch lại là… một tay cờ bạc cự phách (hoặc giả… cờ gian bạc lận như thế nào đi nữa thì cũng chính ông Hội đồng mới biết mà tôi). Khi thấy tôi thắc mắc, bộ ông Hội đồng hồi đó là tay là tay tổ cờ bạc hay sao mà dám rủ rê các địa chủ đánh bạc để lấy đất, lấy ruộng một cách hợp pháp. Ông Phan Kim Khánh cười ngất và bảo: “Tui nói sợ cô không tin, chớ Băng bạc Chà hồi đó phải tán gia bại sản vì rủ ông ngoại tôi đánh bạc, vài năm sau đồng tiền có giá, ông ngoại tôi… biết ơn Băng bạc Chà hết biết (!)”.
Thiệt tình là những năm 30, khi lúa 2,5 cắc xuống 1,8 cắc, vàng một lượng 25 đồng còn 18 đồng, gia tộc này vớ bẫm. Biết bao người phải sang bán, cầm cố đất đai cho Hội đồng Trạch. Ông Hội đồng có đến 90 tuần khạo chuyên đi thu lúa mướn, ông sắm máy bay cũng chỉ để đi kiểm tra tuần khạo. Ban công, sân thượng nhà ông không chỉ để hóng mát mà còn để phơi tiền. Phải chăng, chính cái gia sản kếch sù ấy là điều kiện tốt nhất cho con cháu ông ta mặc sức ăn chơi.
Tuy vậy, cội nguồn gia sản của Hội đồng Trạch không phải do bóc lột tá điền vẫn không bằng một lai nào khi so với cha vợ của mình là Bá hộ Bì. Ông Bá hộ Bì có đến bảy vợ và trên 10 chiếc ghe chài – một gia sản lớn lao vào lúc bấy giờ. Hồi môn của các cô con gái đủ để người khỏi phải bươn chải kiếm sống thêm. Thế nhưng, các ông con rể của bá hộ thấy đồng tiền sao kiếm dễ quá nên cứ lao vào hút sách, bài bạc đến độ cầm cố lần hồi. Riêng ông con rể Trần Trinh Trạch không chỉ biết hưởng mà còn làm cho của hồi môn bên vợ sinh sôi, nảy nở. Các anh em cột chèo cho vợ chồng Hội đồng Trạch. Theo có đến 69 ngàn mẫu ruộng, trên 10 sở muối, toàn bộ hai dãy phố lầu ở Bạc Liêu, một dãy phố lầu ở đường Gia Long, Sài Gòn cũ. Riêng dãy bungalow mà trước là nhà cầm đồ kế chợ Nhà lồng cộng với hãng rượu ven sông Bạc Liêu là gia sản của các con rể Bá hộ Bì cầm cố. Và cũng chính Hội đồng Trạch là một trong 4 đại gia thời bấy giờ cùng sáng lập ra Ngân hàng Sài gòn Thương tín. Và cũng chính ông Hội đồng đã luôn có mặt trong những thương vụ bàn bạc chuyện xuất cảng lúa gạo cỡ bự của miền Nam thời bấy giờ.
Nhưng quả là ông trời có luật bù trừ, gia sản nứt đố, đổ vách chớ nào mấy người được hưởng. Giàu cỡ đó, mua gan Rồng còn được vậy mà hễ bà Hội đồng Trạch đụng tới một miếng thịt, một cái đùi gà là ói ra mật xanh, mật vàng. Tư niên, mãn mùa bà chỉ ăn cơm với cá kho quẹt thật mặn hoặc ba khía. Cánh tuần khạo, người ăn, kẻ ở cho gia tộc này lén lút truyền miệng rằng bà Hội đồng là thần tài giữ của cho gia tộc Trần Trinh. Riêng ông lớn Trạch hồi đó bất luận thế nào cũng phải ăn một mâm riêng, đi cầu thang riêng. Nhưng chuyện ăn mặc cũng rất đơn giản, không đi ra ngoài thì thôi, ở nhà ông vận độc chiếc áo túi hàm ếch màu trắng. Có lúc lên hầu ông ngoại, Công tử Khánh nhìn nhầm ông Hội đồng là chú Trội – vị quản gia thân tín nhất của gia tộc.
Ông Hội đồng Trạch mất năm 1942 tại Sài Gòn vì bệnh suyễn. Lúc đó, Cậu Tám bò – Trần Trinh Khương sống bên Pháp đã về Việt Nam. Không có tiếng chơi ngông bằng ông anh Ba Huy, nhưng để “xứng mặt” gia tộc cậu Tám cũng đã nghĩ đến một chiêu khoe mẽ độc đáo. Một chiếc Chevollet được điều đến và xác ông Hội đồng được đeo kiếng đen đặt ngồi ngay ngắn trong xe. Khi về đến địa phạn Bạc Liêu, tá điền hai bên đường cứ cúi đầu cung kính vì ngỡ… ông Hội đồng đi thăm ruộng. Đến khi gia tộc phát tang mọi người mới bậc ngửa. Đến nay, thời gian qua đi khá lâu nên dân cố cựu Bạc Liêu không còn nhớ rõ chi tiết. Người thì bảo linh cữu ông Hội đồng quàn 1 tháng, kẻ thì bảo bảy ngày. Nhưng ai cũng nhớ, người đưa đám đông vô số kể. Khúc đầu đoàn người đưa tiễn về đến Cái Dầy, Vĩnh Lợi khúc đuôi vẫn còn loanh quanh trong khu phố cổ. Tôi trộm nghĩ, có đến năm cây số quốc lộ chớ chẳng chơi (?). Trâu, bò, gà, vịt chết, la liệt nội nước hột é đã phải quậy bằng mái đầm để la liệt quanh nhà. Tá điền các nơi la liệt ăn nhậu thỏa thích bảy ngày, bảy đêm.
Nhưng đám ma ông Hội đồng thấy vậy vẫn không danh tiếng bằng đám ma bà Hội đồng 5 năm sau đó. Chuyện thì hơi dài dòng, nhưng là vầy. Sau khi ông Hội đồng mất, thấy cảnh nhà trống vắng, đơn chiếc bà Hội đồng qua Pháp ở với cô cháu gái tên Hai Lưỡng. Cô Hai Lưỡng chính là con gái lớn của Trần trinh huy. Cô Hai này trước là vợ một viên quan cận thần của vua Bảo Đại nhưng sau qua Pháp ly dị làm vợ một ông bộ trưởng. Chẳng may, thưởng ngoạn cảnh hoa lệ phố phường Ba Lê không bao lâu bà Hội đồng qua đời. Và theo những người còn lại trong gia tộc, Viên thị trưởng nọ đã đặt một quan tài có nắp bằng kính để tỏ lòng hiếu thảo với vợ ngoại và còm măng hẳn một chiếc phi cơ chở quan tài về Việt Nam (!). Tiếng đồn còn nhanh hơn tốc độ phi cơ. Khi đưa được quan tài về khu mộ gia ở Cái Dầy thì dân lục tỉnh đã đổ xô về vô kể. Họ muốn lần đầu tiên nhìn thấy một quan tài bằng kiếng. Và khuôn mặt bà Hội đồng đã được dồi phấn rực rỡ hiển hiện sau khung kính quan tài càng làm, cho dòng người đổ về thêm đông. Tôi chợt hiểu, chuyện đến mức đó thì việc chụp ảnh, hay quay phim đám ma lúc bấy giờ nào có khó khăn gì với gia tộc Công tử Bạc Liêu.
Chợt ông Khánh trầm giọng bảo: “Phải hồi đó, các cậu tui nghe lời ông thầy phong thủy giờ đâu đến nổi “ Hóa ra, lúc chọn đất để chôn cất, gia tộc có rước về một ông thầy phong thủy nghe đâu danh tiếng nhất xứ Sài Gòn – Chợ Lớn. Nhìn trước, nhìn sau, bấm quẻ thế nào ông thầy phán một câu: “Tiếng ông Hội đồng đất đai lớn vậy nhưng không có chỗ chôn. Không cải số được. Phải chịch qua vài tầm ngay miếng đất hàm rồng, ráng nói khó với người ta để xin cho mình một công đất làm mộ gia. Còn hổng tin tui, tui kỳ hẹn nội trong vòng mười ngày đổ lại không tán gia bại sản tui không làm người”. Dĩ nhiên, nghe thì nghe vậy nhưng trong gia tộc lại bàn tán xôn xao rằng chẳng lẽ điền đất cỡ đó lại phải xin thiên hạ một thẻo đất chôn, tiếng tăm đồn mãi đến bao giờ mới hết. Vả lại, gia sản cỡ đó có nằm mơ cũng xài không hết. Rồi lãi mẹ đẻ lãi con nói chi đến chuyện tán gia bại sản. Ngay cả chuyện ông Ngô Đình Cẩn từ miền Trung đánh tiếng vào mua lại một chiếc sập gụ với giá… Một triệu bạc các công tử còn không buồn trả lời, huống chi. Vậy là, các cậu công tử cho một chiếc xe đưa lão thầy phong thủy về Chợ Lớn sớm cho… khuất mắt. Ngay sau đó, một khu mộ gia sừng sững mọc lên. Cả hai phần mộ của ông bà Hội đồng lót bằng đá hoa cương, bệ thờ và hai sư tử có cánh chầu hai bên đều bằng cẩm thạch. Mọi vật liệu đều được chở từ bên Pháp qua. Lúc đó, có lẽ con cháu ông Hội đồng đều không biết rằng khu lăng mộ uy nghi đó như là một Dấu chấm hết cho một gia tộc lẫy lừng. Hiện nay, khu lăng mộ vẫn còn nguyên vẹn tại ngoại ô Bạc Liêu dọc theo quốc lộ 1A, người dân xứ Cái Dầy gọi chết tên khu vực này là Xứ Mộ Ông Lớn.
* Vang danh công tử Bạc Liêu”.
Có lẽ, tất cả những chuyện bi hài lẫn giai thoại xung quanh gia tộc Trần Trinh Trạch – người biết hết, mà biết rất tinh tường chỉ có ông cháu ngoại Phan Kim Khánh. Nhân vật đã được ăn theo “cậu ba Huy” rất nhiều năm tại đất Sài Gòn. Giờ đây, ông ba đang sống hết sức bình lặng, kín đáo với chức phận một cán sự y tế bên con kênh cầu Sập. Nhưng những ký ức ngày ấy vẫn cứ dày dò tâm trí ông. Có lần, khi biết tôi đang đi “xác minh” những giai thoại về công tử Bạc Liêu và cả về ông ta, “công tử” Khánh đã đến nhà và hóm hỉnh bảo nhỏ: “Nói thiệt với cô chứ tui mà bằng cái lai nào so với ổng. Nói tới Công tử Bạc Liêu là già trẻ lớn bé xứ này đều biết đến Cậu Ba Huy. Tui ăn chơi cỡ nào rốt cuộc muôn đời cũng chỉ là cái bóng của ổng thôi”.
Theo lời ông Khánh thì Hội đồng Trạch có 7 người con – 3 trai, 4 gái. Tên của những người con cũng được đặt hết sức bình dân: Hai Đinh, Ba Quy (quy là rùa, sau này cậu ba đi Tây chê cái tên quê mùa đã cải ra thành huy), Tư Huệ, Năm Thu, Sáu Đông, Bảy Dầy, Tám Bò. Tiếc thay, không một ai chí thú làm ăn như cha của mình, hay chí ít như cái tên dân dã của mình. Cũng có thể, của cải gia sản đã nhiều đến mức họ không cần đụng đến một đầu ngón tay. Ba “công tử” phá tiền một người mỗi cách. “Cậu hai” Trần Trinh Đinh có rất nhiều vợ, miễn cậu thích cô nào, lập tức sắm nhà cho. “Cậu hai” chỉ có một lần làm ăn duy nhất là lập nhà máy xay lúa Hậu Giang, lớn nhất lục tỉnh bấy giờ – cũng lại là nhất. “Cậu tám” Trần Trinh Khương qua Pháp học rồi lấy vợ đầm ở luôn bên đó. Hàng năm, “cậu tám” chẳng làm gì chỉ đợi lãnh “măng đa” bên này gởi qua. Nhưng cái nết chơi bời mà sau này được mệnh danh là Công tử Bạc Liêu chỉ có “Cậu ba”. Trần Trinh Huy mới đáng kể. Danh thiếp “cậu ba” chỉ để vắn tắt – “Trần Trinh Huy – propiétaire foncier Bac Lieu”. Với gia sản kết sù của cha để lại “cậu ba” đã thuyết phục cha mua máy bay đi thăm ruộng. Trong một lúc ngà ngà “Cậu” nói: “Toa sắm máy bay đi thăm ruộng còn có ích hơn Bảo Đại sắm máy bay lên Buôn Mê Thuộc chơi bời (!)”. Cũng cần nói thêm, sau này, chỉ có hai công ty Cao su lớn nhất nước là SIPH và Teres Rouges sắm máy bay để đi phát lương cho công nhân. “Cậu ba”có sân bay hẳn hoi ở Trà Nho, Vĩnh Châu. Một chi tiết ít ai đề cập đến lại là việc “cậu ba” sắm chiếc canô có thể lướt trên cỏ, trên mặt sình. “Cậu ba” đi thăm ruộng phải đi trên chiếc xe hơi Chevollet kéo chiếc cano phía sau. Mà thật ra, không phải những đại điền chủ khác không đủ sức mua. Chỉ có một điều, đất đai mênh mông, không bị chia khoảnh cỡ Hội đồng Trạch mới có đường cho canô chạy thôi.
Thật ra, “cậu ba” chỉ biết nói và nghe tiếng Pháp chứ không rành viết. “Cậu” có hẳn một thư ký Tây trong nhà, chỉ để đọc và phúc đáp thư bạn bè. “Cậu ba” sống hẳn theo kiểu Tây, mở phòng nhạc kiểu Tây để tập trung các cô đào hát danh tiếng – giai thoại đốt tiền khoe mẽ với người đẹp phải chăng bắt đầu từ đây. Riêng đầu bếp Tây thì “cậu ba” thay như thay áo. “Cậu ba” không hút thuốc phiện như cha nhưng về khoản cờ bạc thì không kém. Chỉ có điều, ông Trần Trinh Trạch nhờ đánh bài mà thu gom đất điền. Riêng “cậu ba” lại là một miếng mồi ngon cho các tay cờ bạc bịp ở Chợ Lớn. Không hẳn “cậu ba” không biết, phải chăng cậu chấp nhận và cho rằng, phải tiêu tốn một phần gia sản mới xứng mặt là dân sành điệu. Thưở đó, “cậu ba” chỉ vào chơi bời ở Continental, Majestic, vào cercle đánh một cây bài đôi ba chục ngàn là chuyện thường – lúa lúc ấy – cắt một dạ. Rồi có lúc đang đi dạo chơi bằng máy bay. “cậu ba” giành tay lái với phiên phi công Pháp lạc qua tận không phận Thái Lan. Đợt đó, ông Hội đồng Trạch phải điều mấy đoàn xà lan, chở 200 ngàn giạ lúa qua Thái chuộc “quý tử” về.
Khi cha mất, “cậu ba” còn thả sức ăn chơi nữa Nguyên dãy phố Gia Long cũ, có đến 94% nhà của ông Hội đồng nhưng đã “được” “cậu ba” nướng sạch vào các ón ăn chơi. Trong giới nghệ sĩ hồi đó, “cậu ba” khoái nhất “tiếng hát á phiện” Thanh Thúy. Tuần nào, “cậu ba” cũng đi nhảy đầm với người đẹp mỗi lúc “cậu” đến, các cô cave tha hồ mừng, bởi lẽ cậu “bo” mỗi cave không dưới 20 tickê.
Nhưng cũng giống như cha mình, ăn chơi thế nào cũng không quên được cái gốc gác miệt vườn. Ngay cả thời gian đã sống ở Sài thành hoa lệ, tháng nào cũng mướn dàn nhạc sống về nhà , mở tiệc Tây liên miên để lấy ve với mấy người đẹp “công tử Bạc Liêu” cũng chỉ khoái về quê để được… ăn ba khía. Ông Khánh còn nhớ, hồi đó nhà Công tử Bạc Liêu ở gần nhà Phó tổng thống chế độ cũ Nguyễn Ngọc Thơ ở miệt Phú Nhuận (nay là đường Lam Sơn). Và ai đến nhà Cậu Ba chơi đều “hưởng xái” được lính bên phủ phó tổng thống xét đồ. Muôn lần như một, mỗi khi xét giỏ ông Khánh, thấy mắm, thấy ba khía tụi lính gác đều vặn vẹo: “Mẹ, Công tử thứ thiệt gì mà ăn đồ thúi dzậy. Bộ hết chuyện chơi ngong hả”. Ông Khánh cười tủm tỉm bảo” “Cậu ba tui mướn Tây nấu ăn để giựt lè, để có cảm giác sai khiến dân Tây cho sướng đời chớ ổng ham hố gì ba cái bánh lạt, bơ lẽo đó cô. Mà tui nói thiệt cô nghe chơi nghen, ổng lấy vợ Tây cho vui vậy chớ có thấy ổng bả ở chung được mấy ngày…(!)”. Người vợ nhỏ mà Trần Trinh Huy quý nhất lại là một cô gái con nhà bình dân ở Sài Gòn. Ông Khánh kể: “Hồi đó, Cậu Ba tôi ở Sài Gòn còn bả đang bán bánh mì ở đường Gia Long mới 17 tuổi. Mợ Ba tui hồi con gái đẹp lắm. Mà hổng đẹp Cậu ba đâu có bỏ ra 50 ngàn đồng bạc Đông dương để mua”. Tiếng là mợ nhưng tuổi của mợ út cũng chỉ xấp xỉ tuổi thằng cháu trời đánh – như lời công tử Khánh bảo. Mỗi lần về Bạc Liêu, bà hay rủ công tử Khánh giăng một cái mùng thật rộng ngay giữa nhà để rồi cả mợ, cả cháu, cả cậu ngủ chung cho… đỡ sợ ma (!). Riêng vợ lớn công tử Bạc Liêu là bà Ngô Thị Đen, con ông hội đồng Điều – cũng là một đại địa chủ thời bấy giờ . Bà này hay coi sóc chuyện lầm ăn ở Bạc Liêu.
Đa số con cháu của gia tộc Trần Trinh còn sống đều ở nước ngoài. Một số làm kỹ sư, thông phán nhưng cuộc sống chỉ ở mức bình thường. Hiện chỉ có cháu ngoại của “Cậu hai” Trần Trinh Đinh đang sống tại 121 Nguyễn Du. Riêng người vợ sau cùng của “cậu ba” – Công tử Bạc Liêu, hiện đang làm chủ một nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu. Trong hàng con cháu gần nhất của Công tử Bạc Liêu còn sống tại Bạc Liêu, có lẽ chỉ còn ông Phan Kim Khánh – cháu kêu Công tử Bạc Liêu bằng cậu ruột. Mẹ ông Khánh là bà Trần Thị Đông, con gái thứ sáu của Hội đồng Trạch. Thật lạ, ông Khánh hầu như thừa hưởng toàn bộ cái gen ăn chơi của người cậu ruột. Năm nay, “công tử” Khánh đã 64 tuổi (năm 2004) nhưng trông ông trẻ hơn tuổi nhiều. Vào năm ông tròn 60 tuổi, vợ của ông đã sinh cho ông được một đứa con trai. Ngày đầy tháng con trai trông ông vẫn còn phong độ lắm. “Công tử” Khánh bảo nhờ ngày xưa ông ta tập tạ, mà tạ dĩa phải còm măng từ bên Pháp qua hẳn hoi. “Công tử” Khánh bảo với tôi rằng trong gia tộc có quy định, tất cả các nhà nghỉ mát của ông Hội đồng ở Sài Gòn, Đà Lạt, Vũng Tàu con cháu đều được đến ăn ở thoải mái. Kẹt tiền xài đã có quản gia tại đó đưa, chỉ cần ký sổ để cuối năm trừ vào hoa lợi hoặc gia sản hưởng thỏa thích. Những năm đầu 70, vị “công tử” dân Tabert hẳn hoi nghe cha đi học cán sự y tế. Học đâu chẳng thấy, có điều mỗi tháng ông xài bứt triệu bạc cho những công cuộc vui thú ở Vũng Tàu, Đà Lạt, Ăn cơm tháng thường trực ở Arc-en-ciel. Cái nết phá tiền của “công tử” Khánh cũng không kém gì “cậu ba”, “Công tử” Khánh cho hay, ông Hội đồng Trạch có rất nhiều cổ vật quý. Ngoài bát xưa, đáng kể nhất là năm cặp độc bình có chạm rồng năm móng bên ngoài. Quý đến nỗi, chính mấy ông Ba Tàu Chợ Lớn biết và điểm chỉ cho “công tử” Khánh “chôm” bán lấy tiền xài. “Công tử” Khánh đã bán hết hai cặp đút túi 250 ngàn chơi (lúc đó, xe honđa 67 cáu cạnh chỉ 33 ngàn một chiếc). Song, quý nhất có lẽ là bộ trường kỷ của ông Hội đồng. Sau khi ông Trần Trinh Trạch mất, ông Ngô Đình Cẩn đã đánh tiếng mua lại bộ ghế này với giá… 1 triệu đồng. Nhưng bà Bảy Dầy, con gái Hội đồng Trạch không chịu bán vì: “Bán thì mất tiếng tăm nhà mình”. (mới đây, khi đến viếng chùa Chén Kiểu tại tỉnh Sóc Trăng – tôi lại nghe các sư cả chỉ vào hai cái trường kỷ mà Quả quyết, đây là của công tử Bạc Liêu).
Ký ức còn lại về người cậu “lừng danh” đối với “công tử” Khánh như là một người “hào hoa” xài tiền không đếm . Ông Khánh “phục” nhất là “cậu ba” có rất nhiều vợ đẹp nhưng không vợ nào dám ghen. Mỗi lần gặp cháu, “cậu ba” đều bảo vợ đưa… vài ba trăm đồng tiền lẻ cho cháu xài chơi. Nên biết, lúc đó vé xe từ Sài Gòn về Bạc Liêu chỉ có 1 đồng. Thế nên ông cháu cũng rán… chơi cho bằng cậu (!). Điều đáng nói là, cha “công tử” Khánh lại là một người đi theo cách mạng – ông Phan Kim Cân, địa biểu mặt trận Dân tộc giải phóng khu Tây Nam bộ. Ông Phan Kim Cân từng che giấu các nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Ngô Thị Huệ, Tạ Thu Thâu. Lục lại báo chí thời bấy giờ (những năm 60) thấy viết về ông Phạm Kim Cân như sau: “Đây là một tay công tử hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, hạng bảnh về ăn xài… Đây là một Đơn Hùng Tín thưở loạn Tùy sang Đường, hay đem tiền của trợ cấp cho những anh hùng hào kiệt thất cơ lỡ vận” Ông Tạ Kim, một nhà cách mạng lão thành ở Bạc Liêu nhớ lại, chính nhờ ông Phạm Kim Cân vận động nên “cậu ba” có gởi vào khu rất nhiều thuốc men, tiền bạc.
Điều ông Khánh bận tâm nhất hiện nay vẫn là đồ cổ trong gia tộc. Ông bảo, cách đây ngót 25 năm, trong một; lần lên Đà Lạt săn thú, lão gia quản lý biệt thự của gia tộc Hội đồng Trạch có cậy ông về hỏi Cậu Ba Huy, Cậu Hai Đinh về một cây kiếm cổ. Theo lão quản gia. Cây kiếm đó là của “bà quốc mẫu” xứ Ba Lê tặng cho “Quan 5 Trần Trinh Trạch”. Ông Khánh nheo nheo mắt bảo nhỏ – “bộn bạc đó cô” và ông tin là đồ cổ vẫn thất lạc đây đó khá nhiều.
* Những chuyện tình khó tin?!
Còn nhớ, sau khi tôi công bố một số tư liệu về gia tộc Công tử Bạc Liêu một vài kỳ trên báo Thanh Niên, nhiều bạn đọc đã gọi cho tôi chỉ với một câu hỏi duy nhất – những chuyện đó liệu có thật hay không? Biết trả ra sao. Năm tháng dần trôi qua. Nhiều chuyện đã đi vào quên lãng. Ngôi nhà Công tử năm xưa nay phủ đầy rong rêu đứng trầm mặc bên dòng sông đỏ ngầu phù sa nước lớn, nước ròng. Tất cả đã trở thành quá khứ. Mới hôm qua đây thôi, khi về lại Bạc Liêu tôi đã cùng công tử Khánh đi thăm những ông Tuần khạo cho ông Hội đồng Trạch năm xưa. Ông thì lãng tai, ông thì lẫn lộn. Tôi đã cố chắp nối, xâu chuỗi những sự kiện, những ký ức vỡ vụn ấy. Để rồi lại phải giật mình trước những sự thực cứ tưởng chừng như là giai thoại…
Tôi đem những điều bạn đọc hồ nghi, hỏi thẳng ông Phan Kim Khánh. Ông ta nheo mắt bảo: “Úy trời! Chuyện tui nói với cô hổm rày là chuyện thiệt không đó, làm gì có chuyện chơi. Tỷ như bây giờ tui nói con gái Cậu ba tui – “Tran Trinh Huy – propiétaire foncier Bac Lieu” hẳn hoi nghen cô – một thời là tình nhân của Cựu hoàng Bảo Đại. Có thể người khác thoạt đầu họ không tin, nhưng tôi chắc là cô tin tui”,
Có một điều không thể chối cãi được là những người trong gia tộc của Công tử Bạc Liêu rất sính tiếng tăm. Thiên hạ có cái gì họ phải có cái đó, thậm chí của họ còn phải lớn hơn, lừng lẫy hơn thiên hạ. Chuyện Hắc công tử, Bạch công tử đốt giấy bộ lư, giấy con công (đồng bạc Đông Dương) để nấu chè đậu xanh giựt le với người đẹp có lẽ là giai thoại. Nhưng chuyện công tử Bạc Liêu bao giàn gánh cải lương Phước Cương và cô đào danh tiếng Phùng Há về Bạc Liêu hát năm canh suốt tháng là có thật. Gánh hát này chính, do Phước Georges – Bạch Công tử Tiền Giang làm bầu. Ngược dòng một chút, chuyện ông Hội đồng Trạch khi đang làm Thư ký hậu bổ giúp việc cho tỉnh trưởng nhữ năm 30 bỏ tiền ra mua chức quan năm của Pháp. Có lúc tôi cho rằng, ông ta đang chơi một cú áp phe chính trị kiểu Lã Bất Vi đầy béo bở. Nhưng gẫm lại, quả là ông ta háo danh cực kỳ nhưng ông hơn người ta ở chỗ biết dựa vào cái danh ấy làm gì, phục vụ cho những phi vụ làm ăn của mình ra sao. Và phải chăng từ cái máu đó mà nhiều mối quan hệ vừa danh tiếng, vừa rối rắm đã phủ lên phả hệ gia tộc này.
Ông Bá hộ Bì, cha vợ ông Hội đồng nổi tiếng về gia sản, về số vợ mà ông có được. Nhưng tiếng tăm ấy cũng chỉ nội trong xứ Bạc Liêu. Phải nguyên dòng tộc Phan của ông Bá hộ mới được dân lục tỉnh biết đến một cách vị nể. Ông chín Bồ cu – xứ Bạc Liêu gọi vậy – cháu đích tôn Bá hộ vốn là một tay chơi có tiếng. Có điều sau một đợt hỏa hoạn thiêu cháy nhà, hàng trăm con chim bồ câu ông nuôi bỏ đi – nhớ chim, buồn tình ông sống như một nhà ở ẩn dật. Chẳng hiểu sao, ông hội đồng Trạch không chỉ vị nể vợ mình mà còn cho con gái thứ 6 – bà Sáu Đông – lập gii thất với ông Phan Kim Cân. “Công tử” Khánh là kết quả của mối lương duyên này. Ông Khánh còn có một người anh tên là Phan Kim Sơn. Khi cha mình – ông Phan Kim Cân đi tập kết ra Bắc đã đem theo đứa con trai lớn này. Sau, Phan Kim Sơn là một bác sĩ quân y . Ông Ba Hòa, được ông Hội tin dùng.
Nhưng phải đến những cuộc lương duyên, những cuộc tình của các công tử mới nhuốm màu hệ lụy, bí ẩn. Bà Ba Lan, con gái ông Chín Bồ cu hiện đang bán cà phê xứ nhà bảo với tôi rằng, ông Hội đồng Trạch ít khi dùng quyền lực để bắt con gái, đàn bà về làm vợ. Có chăng là ông ta dùng tiền bạc để mua. Và các công tử con ông Hội đồng cũng vậy. Vợ nhiều, nhưng các bà vợ đều có giang sơn riêng biệt, hầu như chưa có màn đánh ghen nào phía sau cánh cửa gia tộc Trần Trinh. Như Cậu hai – Trần Trinh Đinh dẫu bỏ ra 20 ngàn bạc Đông Dương để mua cô Ba Tr. Nhưng vẫn đối sử rất mực với vợ lớn, bà Hai Sâm. Mợ Hai tên thật là Dương Nguyệt Thanh con gái ông Bá Mậu – cũng thuộc dòng dõi xứ lục tỉnh. Người con duy nhất của cậu. Mợ hai là cô Trần Kim Liên được gả cho bác sĩ Cao Triều Lợi lại cũng là một dòng họ lớn ở đây. Hoặc người thương được đánh giá thấp trong dòng tộc – Cậu Tám Bò Trần Trinh Khương cũng có chuyện để nói. Dân xứ Bạc Liêu biết đến cậu Tám không chỉ vì cậu sống bên Tây, chơi với Tây mà còn vì cô gái của cậu Tám (vợ; ông Chánh án Tòa án Biên hòa chế độ cũ). Họ “bể” nhất chuyện cô ta đi xích lô bất luận đoạn đường ngắn dài đều bo một tờ 100 đồng. Sáng thức giấc phải có một tách cà phê nóng trên bàn phấn mới bước khỏi giường. Hoặc cứ xầm xì mãi việc cô ăn mía không cần xước, cô có hẳn một cái máy ép mía quay tay hẳn hoi (!). Nghe ngữ điệu thán phục, tôi chợt nghĩ giá trị chiếc xe nước mía lúc đó ắt hẳn phải cỡ 100 cái lò viba chứ chẳng chơi. Nhân nhắc đến cậu Tám Bò, tôi lại nhớ đến một chuyện không dính dáng gì đến phả hệ nhưng khá ly kỳ. Số là thời gian Cậu Tám sống bên Tây nhiều hơn bên Ta. Một năm mười hai tháng cậu chỉ đáp phi cơ về xứ để thâu huê lợi từ công xi rượu. Và muôn lần như một, mỗi khi đem cơm lên hầu cậu Tám các tá điền, gia nhân đều tá hỏa khi thấy cậu “nuy” một trăm phần trăm đi tới đi lui mà than cho cái… oi bức xứ Việt (!). Có lần phởn chí, cậu Tám rước ông thầy đánh boxing bên Pháp về Bạc Liêu mở võ đài khiêu khích. Ông thầy tên là Socola thượng đài gần một tuần vẫn chưa có đối thủ xứng tay. Phút chót võ sư Sáu Cường nhận lời và đã đánh Socola ra máu miệng. Socola chết sau đó một tuần. Võ sư Sáu Cường cũng phải bỏ đi biệt xứ. Lưu dân xứ khẩn hoang thì có dịp hả hê dẫu không muốn ra mặt.
Nhưng đúng là chỉ có cậu Ba Huy – Công tử nguyên bản – mới làm “xứng mặt” cho gia tộc. Ông Khánh bảo vợ Cậu ba có đến hàng chục chưa kể cả tá nhân tình Tây Ta Tàu lẫn lộn. Nhưng cũng giống như cha mình, Cậu Ba vẫn nể vì người vợ lớn – bà Ngô Thị Đen. Bà này vốn là em ruột Hội đồng Điều. Theo trí nhớ của các Tuần khạo thì giàu bậc nhất xứ Bạc Liêu xưa chỉ có 4 đại gia: Trần Trinh Trạch, Châu Văn Quai (Tô Quai – chủ tô muối), Chung Bá Vạn (chủ rạp hát Chung Bá) và người còn lại chính là Ngô Phong Điều. Chẳng hiểu mai mối theo đường dây mối nhợ nào mà cô Hai Lưỡng con gái Cậu Ba lại nâng khăn sửa túi cho ông Trần Huy Hoa – quan bí thư của Cựu hoàng Bảo Đại (?). Và đây cũng là đầu dây mối nhợ cho một chuyện chẳng biết thực hư. Không biết cô Hai Lưỡng có phải là bậc sắc nước hương trời hay không nhưng rồi một ngày nọ vị Cựu hoàng nổi tiếng háo sắc lại đâm ra mê mệt vẻ mặn mòi châu thổ của Cô Hai. Hai người dan díu với nhau cỡ nào thì không rõ. Riêng bà Ba Lan quả quyết, khi biết chuyện Nam Phương Hoàng hậu đã đánh ghen rầm trời, đến độ Quan Toàn quyền Decoux đã nhờ vợ là bà Suzane lên Đà Lạt dàn xếp, khuyên bảo hoàng hậu. Nghe đâu, khi lên đến đèo Prenn trong chuyến đi đó phu nhân Decoux đã tử nạn vì tai nạn giao thông (?).
“Ngày 30 – 8 – 1937, Hoàng đế Bảo Đại sắc phong cho ông Nguyễn Hữu Hào lược “Long Mỹ Quận công”. Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần ngày 13-9-1937, được an táng theo nghi thức Quận công trong một ngôi nhà mồ tráng lệ, trên một ngọn đồi gần thác Cam Ly Đà Lạt. Lăng Nguyễn Hữu Hào là do chính gia đình bà Nguyễn Hữu Hào bỏ tiền ra xây cất. Lễ quy lăng được cử hành ngày 10-9-1941. Ngày đó là một biến cố lớn ở Đà Lạt khi Hoàng gia, gia quyến ông Nguyễn Hữu Hào, các quan lại cao cấp Pháp Việt, đều có mặt đông đủ trong một buổi lễ trang nghiêm tại nhà thờ Thánh Nicolas. Nhân dịp này, Nguyễn Tiến Lãng, bí thư của bà Nam Phương Hoàng hậu có viết một bài bằng tiếng Pháp đăng trên báo L`Indochine Annamité à Dalat” (Một đài kỷ niệm lịch sử đầu tiên của người Việt tại Đà Lạt).
Buổi lễ quy lăng được tổ chức dưới sự hiện diện của:
– Hoàng đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu.
– Bà Bá tước Dielot, Khâm mạng Hoàng triều cương thổ. Ông bà Lê Phát An, tức An Định Vương, cậu ruột Hoàng hậu.
– Toàn quyền Decoux và vợ là Suzane.
– Giám mục Casaigne, Drapier.
– Khâm sứ Trung Kỳ Grandjean.
– Một số đông quan khách Pháp Việt…
Bà Suzane là bạn thân của Hoàng hậu Nam Phương. Thỉnh thoảng từ Sài Gòn, bà Suzane là người Công giáo, ngoạn đạo, đóng góp nhiều tiền bạc cho giáo đường Thánh Nicolas. Trong một chuyến lên Đà Lạt thăm bà Nam Phương, bà Suzane bị tai nạn (xe lật trên đèo Preun) và tử nạn”. (Trích Vnthuquan)
Thực hư thế nào không rõ, duy có điều sau đó không bao lâu cô Hai Lưỡng đã li dị với ông quan bí thư triều đình với lý do ông này quá hủ cựu. Cô hai bay qua trời Tây và lập lại gia thất lần hai với một… Thị trưởng người Pháp (!). Chính viên thị trưởng này là người còm măng một chiếc phi cơ và một chiếc quan tài bằng kính cho bà Hội đồng đã nói ở trên.
“Tôi vẫn không tin lắm những chuyện này, ông Khánh à” – tôi lại khều nhẹ ông Khánh. Ông tủm tỉm bảo – “Đó là quyền của cô. Nhưng chuyện này thì cô phải tin”. Điều ông Khánh buộc tôi phải tin là vầy. Số là có lần khi đi thăm ruộng miệt Trà Nho, Vĩnh Châu bằng… phi cơ, cậu Ba đã lạc tay lái đâm thẳng chiếc phi cơ xuống sình. Chắc là đi phi cơ mãi cũng chán, chẳng thèm cẩu lên, cậu Ba chơi sang bỏ luôn. Sau này, một nhà chơi đồ cổ tận xứ Phù Tang mua lại và mướn một chiếc tàu biển chở về xứ làm… lưu niệm. Tôi chợt phì cười nhưng chợt nhớ chẳng phải báo chí một thời đã đăng tải tờ hóa đơn mua máy bay của Cậu ba có chua chua thêm một dòng – đây là chiếc máy bay đầu tiên thuộc chủ quyền tư nhân xứ Đông Dương đó hay sao. Thôi thì thật hay giả cũng vậy, tin hay không cũng chả sao. Duy có điều được ngồi nói chuyện lai rai với hậu duệ công tử Bạc Liêu trên một chuyến xe lôi cọc cạch đã là một điều thú vị nhất trần đời của tôi rồi.
Năm tháng dần trôi qua. Gia tộc Trần Trinh với những chuyện thật đã dần đi vào quên lãng. Người ta chỉ còn nhắc đến chung chung một Hắc công tử , một Bạch tử của xứ Lục tỉnh Nam kỳ. Ngôi nhà của Công tử Bạc Liêu hiện đang trầm mặc bên dòng sông nước lớn, nước ròng đỏ ngầu phù sa. Khu mộ gia nằm hoang vu giữa đồng khô nắng cháy, giữa cỏ và cỏ, ít ai ngó ngàng chăm sóc. Dân chúng thì bảo “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” khi nhắc đến gia tộc này. Tất cả đã trở thành quá khứ. Phiếm bàn một chút cũng chỉ để nhớ về chuyện xưa.
Cập nhật ( 27/09/2014 )