CHỮ QUỐC NGỮ QUA NHỮNG BIỂN DÂU * Đoàn Xuân Kiên 1. Chữ viết ra đời rất muộn màng so với tiếng nói của một dân tộc Con người đã truyền thông với nhau bằng tiếng nói từ khi họ kết tập với nhau thành những tập đoàn chung sống. Nhưng chỉ là từ khi một thứ tiếng nói đã được sử dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng lời nói của mình, khi ấy chữ viết mới thật sự ra đời. H1. "Chữ" thắt nút dây Thật ra, khó có thể nói là chữ viết đã ra đời “nhất thành bất biến“ như chúng ta thấy ngày nay. Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen biến đổi, từ hình thức thắt nút dây như đã đượcghi nhận trong một câu ở Kinh Dịch: “Thượng cổ kết thằng nhi trị…” đến sâu chuỗi vỏ sò có màu sắc khác nhau như người da đỏ Iroquois, đều là những hình thức kí hiệu để ghi lại ý tưởng người xưa muốn truyền đạt cho nhau, hoặc đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ. Những hình thức đó đều là những dạng mở đầu do con người mò mẫm mà có được. Những hình thức chữ viết bằng đồ vật như vừa nói ở trên là những gì sơ khai nhất của chữ viết (Hình 1: chữ viết kết bằng dây thừng của người Chăm trong khu vực văn hoá Đông Sơn [1]). Tiến lên một bước nữa là hình thức chữ viết bằng hình vẽ mà ta còn có thể thấy trong các văn bản cổ trên đá của người cổ Ai cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là những vẽ trên đồ vật bằng đất nung của người Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3000 năm trước (Hình 2: Chữ viết bằng hình vẽ của người Ai Cập cổ). |