CHỮ NÔM & VIỆC HỌC CHỮ NÔM * Tống Phước Khải SỰ RA ĐỜI CỦA CHỮ NÔM Chưa có tư liệu nào chứng minh một cách thuyết phục về thời điểm ra đời của chữ Nôm. Trong phạm vi bài viết này chỉ bàn về những khía cạnh mang tính ứng dụng vào việc học tập. Chúng ta tạm phân tiếng Việt thời xưa ra làm 2 loại: tiếng kinh điển (Hán) và tiếng bình dân (Nôm). 1.Tiếng kinh điển do nền giáo dục Nho học từ Trung Quốc truyền bá vào. – Âm có nguồn gốc từ âm Hán, gọi là âm Hán Việt (có người cho rằng đây là âm Trung Quốc cổ).
– Chữ viết là chữ Hán. 2.Tiếng bình dân được sử dụng chủ yếu trong giao tiếp lời nói. Tiếng bình dân cũng có những chữ lấy từ tiếng kinh điển. – Âm là âm bình dân của người Việt. – Chữ viết không có. Nhu cầu ghi tiếng bình dân thành văn bản đã dẫn đến sự ra đời của một loại chữ viết mới được gọi là chữ Nôm. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỮ NÔM – Một chữ Nôm được viết bằng một hay nhiều chữ Hán (hoặc thành phần của chữ Hán). – Người viết được chữ Nôm phải biết cả tiếng bình dân lẫn tiếng kinh điển. – Người đọc được chữ Nôm cũng phải biết tiếng bình dân lẫn tiếng kinh điển. Do thời xưa chữ Nôm không được tiêu chuẩn hoá cho nên tự ai nấy diễn đạt chữ viết theo riêng mình, làm cho một chữ bình dân có thể có nhiều chữ viết Nôm khác nhau. Điều này gây ra sự phức tạp trong chữ Nôm. Sau đây là vài ví dụ về cách thức diễn đạt của người xưa: Ví dụ:
|