CHẤT DÂN GIAN TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP” CỦA NGUYỄN TRÃI * Lê Xuân Nguyễn Đồng Tuân, người bạn đồng khoa với Nguyễn Trãi có nhận định: “Gió tây hây hẩy gác vàng… người như một ông tiên ngồi trong tòa ngọc. Cái tài làm hay làm đẹp cho nước từ xưa chưa có bao giờ. Đó là cái tài về võ để trị đời giúp nước. đó là cái hay của văn phong, đức độ sáng tựa sao Khuê của Ức Trai tiên sinh. Trong kho tàng văn học nước nhà, có thể nói Nguyễn Trãi là người đã góp phần làm phong phú ngôn ngữ dân tộc. Khẳng định của giá trị văn học chữ Nôm. Với 254 bài trong Quốc âm thi tập, có nhiều câu, nhiều bài thắm đượm chất dân gian.
Thơ văn của Nguyễn Trãi nói chung và Quốc âm thi tập nói riêng, bài nào cũng thấm đượm tinh thần dân tộc và mang một hoài bảo lớn của tấm lòng “tiên ưu hậu lạc”. Là một người sinh ra và lớn lên đã chứng kiến nhiều sự điên đảo của xã hội Trần, Hồ, Lê… với bao vui, buồn, tủi, nhục. Hồn thơ trong Quốc âm thi tập luôn gắn với hồn thơ dân tộc. Mỗi hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ, thể loại thơ. Nguyễn Trãi điều có những sáng tạo in dấu ấn đậm chất dân gian. Các nhà thơ xưa chịu ảnh hưởng Nho học thường sa vào ngâm vịnh phong, hoa, tuyết, nguyệt, lệ thuộc nhiều vào điển cố, điển tích của văn học Trung Quốc. Còn Nguyễn Trãi chẳng những tiếp thu sáng tạo mà còn có cái nhìn mới. Đề tài, con người, cảnh vật Quốc âm thi tập rất gần gũi, thân quen: một cây chuối đang độ trẻ trung, nguyên trinh, một cây xoan đầy hoa khoe sắc, một rừng cây luôn mở cửa đợi chim về, một ao sen chờ trăng lên in bóng, một áng chiều tà, một vần trăng xao xuyến, một luồng gió thổi nơi rừng thông, một tiếng suối như cung đàn cầm…Từ con mèo, con chó, con ngựa, tới ao rau muốn, dậu mồng tơi, trái núc nác, củ ấu, lãnh mùng, khóm vầu, bụi tre… tất cả đều ùa vào thơ ông như chính sự sống vốn có. Những cảnh tình, mãnh đời, đạo vợ chồng, tình phụ tử, bằng hữu… luôn ẩn chứa sau mỗi hình tượng thơ. Nguyễn Trãi đã xử lý các đề tài, hình ảnh, điển cố điển tích tưởng đã trở thành ước lệ, bằng cách vào đó những cái hồn của những tục ngữ, ca dao, của những tiếng mẹ đẻ, và ông đã việt hóa nhưng phần vay mượn của Hán học. Từ câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (ngĩa là: lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ – Phạm Văn Chính). Nguyễn Trãi đã diễn đạt ý đó bằng hai câu ở bài Ngôn chi – bài 18: Ta ắt lòng bằng Văn Chinh nữa Vui sơ chẳng quản đeo âu Từ câu “Nhân tâm chi bất đồng như kỳ diện yên (nghĩa là: lòng người khác nhau hiện ra ở nét mặt – Tả truyện), và từ câu tục ngữ Việt “Của nhiều, sơn dã đem nhau đến Khó ở kinh thành ít kẻ han” (bảo kính cảnh giới – bài 6) “Giàu người họp, khó người tan Hai ấy hằng lề sự thế gian” (bài 12) “Phú quí thì nhiều kẻ đến chen Uốn đòi thế thái tính chưa quen” (bài 13) “Yêu trọng người dưng là của cải Thương vì thân thích nghĩa chân tay” (bài 18) Với những triết lý về lẽ sống ấy, Nguyễn Trãi phê phán những ai xem “của nặng hơn người” – những kẻ lấy tiền bạc làm thước đo mọi hệ, xem thường nghĩa tình thân thích. Đó cũng là một khía cạnh của triết lý nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi hằng ôm ấp. Điểm lớn hơn về cả mặt hình thức ở thơ quốc âm của Nguyễn Trãi là việc xây dựng sáng tạo ngôn ngữ văn học dân tộc. Nhiều quán ngữ, tục ngữ, thành ngữ, ca dao được ông sử dụng khá linh hoạt như: “đôi ba khóm”, “sừng qua tai”, “Quanh co ruột ốc”, “nên thợ nên thầy”, “no ăn no mặc”… Đó là ngôn ngữ của quần chúng nhân dân lao động đã được ông gọt giũa, cách điệu hóa, nâng lên để diễn đạt những ý tưởng cô đúc, nhuần nhị. Ta thử làm một bản so sánh ngắn về một số câu thơ giàu chất dân gian: Tục ngữ, ca dao – Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. – Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. – Ở gần nhà giàu đau răng ăn cám Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn – – Miệng ăn núi lở. – Lên non mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy. – Của làm ra để trên gác Của cờ bạc để ngoài sân Của phù vân để ngoài ngõ. – Không thầy đố mầy làm nên – Có làm thì mới có ăn Không dưng ai dễ đem phần đến cho – Nói dai, nói dài, nói dại – Bớt tiền thì bớt cù lao Bớt ăn, bớt uống, thì tao bớt làm – Trăm năm bia đá thì mòn Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ – Cò ngao tranh thực, ngư ông thủ lợi – Ăn lấy chắc , mặc lấy bền – Con sâu bỏ rầu nồi canh – Xảy đàn tan nghé – Đất bụt mà ném chim trời Chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa – Bể sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng – Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc khó hay đỡ đần – Con một mẹ hoa một chùm Yêu nhau nên phải học đùm lấy nhau – Quá mù ra mưa, quá chua ra úng… Chính vì sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học dân gian nên những âu thơ Nôm của Nguyễn Trãi có giá trị gợi thanh, gợi hình rất sinh động, “Thơ của ông là tấm kính hội tụ những ánh hào quang của quá khứ” (Đinh Gia Khánh). Nguyễn Trãi không bị gò bó bởi luật thơ Đường, mà thơ Nôm của ông luôn có luật phá thể, thay nhịp, nhiều câu 5 chữ, 6 chữ xen vào những câu 7 chữ nhằm diễn đạt một nội dung tự do, phong phú, hợp với cảm xúc chân thành hồn nhiên, nhưng vẫn giữ được sự hàm súc sâu sắc, Bài Thuật hứng – số 8 là một điển hình: “Hễ kẻ làm quan đã có duyên Tới lui mặc phận tự nhiên Thân xưa hương hỏa chăng còn ước Chí cũ công danh đã phỉ nguyền” Quốc âm thi tập – Đen gần mực, đỏ gần son – Ở bầu thì dáng ắt nên tròn Xấu tốt thì đều rắp khuôn (Bài 21) – Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế Ắt đã tròn bằng nước ở bầu (Bài 4) – Lận đận nhà giàu lo bửa cám Bạn bè kẻ trộm phải ăn đòn. (Bài 21) – Làm biếng ngồi ăn lỡ núi non (Dạy con trai – bài 192) – Có con mới biết ơn cha nặng Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều (Bài 37) – Bất nhân vô số nhà hào phú Của ấy nào ai từng được chầy (Bài 44) – Nên thợ nên thầy, vì có học No ăn no mặc bởi hay làm. (Bài 46) – Nếu có ăn thời có lo Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho (Bài 19) – Nhiều thốt đã đành nhiều sự lỗi Ít ăn thì lại ít người làm (bài 47) – Nhọc nhằn ai chớ còn than thở Ăn có dừng thì việc có dừng (bài 54) – Bể truyền bia miệng kiếp nào mòn Cao thấp còn cùng xem việc mất còn (bài 55) Cơm ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chỉ gấm thêu (Ngôn chí – bài 3) – Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn Nên có sâu thì bỏ canh (bài 9) – Chúa đàn nẽo khẻo tan con nghé Hòn đất hầu làm mất cánh chim (bài 25) – Dễ hay ruột bể sâu cạn Khôn biết lòng người ngắn dài (Ngôn chí – bài 6) – Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng người quanh tựa nước non quanh (bài 9) – Chân tay dầu đứt bề khôn nối Xống áo chẳng còn mô dễ xin (bài 15) – Ở ngọt thì hơn nhiều kẻ trọng Quá chua liền úng có ai màng… “Trẻ hòa xin lấy phúc Già được lọn là tiên Cho về cho ở đều ơn chúa Lọ phải chon chăn đến cửa quyền” Nhịp thơ có khi 2/4, 3/4, 4/3, 3/3… Vần trong những bài thơ cũng rất phóng túng, phần lớn là cước vận (vần chân), thể yêu vận (vần lưng) ít. Lối diễn đạt theo kiểu: “phú”, “tỷ”, “hứng” của ca dao được Nguyễn Trãi kết hợp hài hòa ở nhiều bài thơ. Côn Sơn ca là một bài tiêu biểu. Ở đây chất dân gian hòa quyện trong chất bác học, trí tuệ: Côn Sơn có suối nước trong Tai nghe suối chảy như cung đàn cầm” … Cơm rau nước lả nuôi thân Muôn chung nghìn quý có cần quyền chi…” Qua khảo sát 254 bài của Quốc âm thi tập, ta thấy tỷ lệ những bài thơ được Nguyễn Trãi vận dụng tục ngữ ca dao dân ca để sáng tạo khoảng 9,8%. Những bài ấy cùng với “Ức Trai thi tập”, “Bình ngô đại cáo”./. |
Cập nhật ( 28/01/2010 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com