20/08/2011 |
BÔNG HỒNG CÀI ÁO * Thiện Chí
Tác phẩm “Bông hồng cài áo” của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãi ở Việt
Rồi cũng có điều, làm mọi người xốn xan. là mình đã lơ là, thiếu bổn phận, khi cha mẹ còn sanh tiền. Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng liêng, vô giá. Cho nên, đối với mọi người – còn mẹ hay mất mẹ, “Bông hồng cài áo” làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó, hiểu mình phải làm gì, để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng Bảy, đồng bào Việt Nam, cũng như tính đồ Phật giáo đều đi chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành, cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền đượ? sống lâu trăm tuổi, người đã qua đời, siêu sinh thác hóa.
Sau khi hành lễ và nguyện cầu. Từ sân chùa, tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi, vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền. Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra, cũng thể hiện cái gì đó, đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó, mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón “Bài thơ”, với tà áo dài phất phơ tung gió. Trước ngực mọi người, ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng, mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc, cho thân phận mồ côi của mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chang chứa tình người mà ai đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn ssnh thành dưỡng dục của mẹ cha, thì người đó, đẹp nết lẫn đẹp lòng.
Cho nên, hòa cùng với gió thu nhè nhẹ, mưa ngâu lất phất : mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con người trở thành hiền diệu, bởi vì ai cũng hành trai, giữ giới hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng, điểm tô thêm cái đạo đức của con người. Biểu tượng “Bông hồng cài áo” đã được Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, chủ trương thực hiện tại Việt Nam, sau khi Hòa thượng đi du hóa tại Nhật, có ngày lễ của mẹ. Ngày ấy, mọi ngườ? cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó hay hay, nên khi về Việt Nam, Hòa thượng đã viết bài “Hoa Hồng cài áo” và phát động “cài Hoa hồng” vào dịp Vu Lan.
Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc. Tại sao Thượng Tọa không cho cài hoa khác. Chẳng hạn: hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ, thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ cha được trường thọ. Hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng – mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc hoa hồng chức đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ nói gì, để biện minh cho biểu tượng “Bông hồng cài áo”.
Nếu chúng ta quan sát. Chúng ta thấy cây hoa hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang năm lá nhỏ. Lá gần nụ hoa, chỉ còn ba lá nhỏ mà thôi. Năm chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tính). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống đạo đức của người phụ nữ Á Đông, và phụ nữ toàn thế giới, nói chung. Trước hết bàn về ngũ thường. Một người con gái, người phụ nữ, người mẹ – xứng đáng, là người giử trọn nhân cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình thương. Chính vì vậy, người con gái rất sợ đau thương, chia lìa, chết chóc.
Cho nên, con gái thường thương yêu súc vật, sợ giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng, sữa là máu huyết, nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất cả. Miễn sao con được no lòng. Tình thương của mẹ thật dạt dào nên, trong Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn : “Mẹ thời, ăn đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con … lại còn khi ngủ, ướt mẹ nằm. khô ráo phần con …Miễn con sung sướng dầu phải mang nghiệp chướ?g cũng cam. Tính sao có lợi thì làm.
Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm … “. Chính cái lòng “nhân” đó, chính sự thương yêu đó, ngườ? phụ nữ, mềm mỏng, nhiều cảm tình và đã hy sinh, chịu đựng cho ngườ? khác; cho con cái của mình.
Dù tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có cùng tột. Người con gái, người mẹ, được mọi người quý kính vì mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã biết trau dồi “công, dung, ngôn, hạnh”. Nghĩa là tự sửa đổi và sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình “tiết sạch giá trong”. Cho nên “khuê môn bất xuất”, giữ đạo làm con, học hạnh làm người. Khi về nhà chồng thì “thủ phận dâu con” kính trên nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắt được huấn dục từ nhỏ. Người con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương tự đắt. Người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn hạnh của mình. Cho nên, đối vớ? cha mẹ, thì hiếu thảo. Đối vớ? anh chị em thì thuận hòa. Đối vớ? xã hội thì kính trên nhường dướ?. Đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Làm vợ thì trung nghĩa.
Người ta thường nói “Trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Xét ra thì quá khắt khe vớ? phụ nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đứ? tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có “Nghĩa” như vậy, mới chứng tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có “Hòn Vọng Phu”. Người đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi hóa đá, sự hóa đá đó, nói lên sự sắc son, nghĩa khí của người vợ, người mẹ. Cái “Nghĩa” đó là bài học giáo dục, là tình thương to lớ? của ngườ? phụ nữ đối với chồng và con. Thườ?g thì ngườ? mẹ nào thủ tiết thờ?chồng, con cái trong gia đình nên danh nên phận. Người ta thường đánh giá con qua tư cách của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng”.
Cho nên sự trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá của con. Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào, cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá. Người phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa, may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ “Nội tướng” vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong nhà, đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người, phải chăng do trí của bà mẹ ? Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ, tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàn, giáo dục khôn khéo v.v… đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái “Trí” của mẹ vậy.
Cuối cùng là chữ “Tín”. Rất quan trọng đối với phụ nữ. Người mẹ được con yêu vì cũng vì chữ tín. Nghĩa là, tư cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời nói và việc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá qua sinh hoạt và đời sống đạo đức của con người. Xưa kia, Khổng Tử thấy người ta giết lợn. Về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử đáp : “Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn”. Đã lỡ lời, dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ, không phải tự nhiên mà được. Mà là do hấp thụ các nhân cách, đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngủ thường là đứ? tính cao quý mà tất cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ – để sau này truyền thụ lại cho con. Năm lá hoa hồng tượng trưng cho đức tính cao đẹp ấy.
Khi hoa hồng có nụ. Năm chiếc lá giảm xuống còn có ba. Tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là, muốn cho tình thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ. Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời, thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói : “giọt nước trước, chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy”. Cho nên, người mẹ muốn con mình hiếu thuận, trước hết phải làm con hiếu thuận. Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời, không muốn tự do và hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, ngườ? đàn bà đã hy sinh, đánh mất đi sự?tự do của bản thân mình. Chịu nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đứ? gia phong. Đến khi có chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết thờ chồng nuôi con.
Cho nên tam tòng là kết tinh cái giá trị cao quý của người đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người phụ nữ từ khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó, kết tinh thành nhựa sống, sự yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và khởi sắc trước ánh mặt trời.
Hoa hồng, ngoài cái sặc sở của màu sắc; còn chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá, còn ba lá, để sau cùng, nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba bão táp, để rồi góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy cái cao quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con.
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên, màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã mất đi sức sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như hoa hồng không còn màu sắc.
|
Cập nhật ( 20/08/2011 ) |
- Chịu trách nhiệm nội dung: TT. Thích Giác Nghi
- Chức vụ: Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bạc Liêu
- Điện thoại: 0949 111 848
- Email: giacnghithich@gmail.com