ALEXANDRE DE RHODES & CHỮ QUỐC NGỮ*
* Bùi Kha Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do: a. Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, hình như đã được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes đã được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh. b. Quốc gia Việt c. Các tài liệu về sử đã được giải mật rất nhiều tạo điều kiện để những nhà nghiên cứu rà xét lại những tác phẩm của mình, nhất là những tác phẩm về sử dưới thời thực dân đô hộ để, một lần nữa, nhận định lại cho đúng công và tội của một số nhân vật có liên hệ đến đất nước và dân tộc ta qua các thời đại, tiêu biểu là các ông Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ), Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký…Bài nầy tôi chỉ đề cập đến Linh mục Ðắc Lộ và chữ Quốc ngữ mà có nhiều người đã nhầm lẫn. Cũng xin nói thêm rằng vấn đề chữ quốc ngữ và quan điểm chính trị của Linh mục Ðắc Lộ tôi đã có một số bài viết trước đây, từ năm 1996, được xuất bản thành sách và đăng trên nhiều trang nhà và tạp chí. Bài nầy tôi chỉ tóm lược một số điểm trong các bài viết để độc giả thấy việc tái vinh danh Linh mục Ðắc Lộ là một sai lầm rất lớn làm thương tổn đến uy tín quốc gia và thể diện của giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Thật vậy, qua hai lần hội thảo năm 1992 và 1993 giới sử học và các nhà nghiên cứu đã “Dâng kiến nghị lên chính phủ và Bộ Văn Hóa để phục hồi lại địa vị của Giáo sĩ Ðắc Lộ” vì hai lý do chính dưới đây: Một, nghĩ rằng ông là người sáng nghĩ ra chữ quốc ngữ. Nhưng trong lời Nói Ðầu của cuốn “Từ Ðiển Việt – Bồ – La”, chính Linh mục nầy, chứ không phải người nào khác, đã cho biết ông không hề có sáng kiến ấy. Ông viết: “…Tuy nhiên trong công việc nầy (học chữ quốc ngữ, BK) ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc hội dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng nầy, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu từ tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ-đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La-tinh theo lệnh Hồng y rất đáng tôn,…”(Từ Điển AN NAM- LUSITAN-LATIN, Thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, TP. HCM, tháng 3, 1991, phần Việt ngữ, tr. 3 ). Cuốn từ điển nầy xuất bản tại Việt Hai, tái vinh danh LM Ðắc Lộ là một sai lầm lớn, vì ông đã vận động Pháp xâm chiếm và đô hộ nước ta qua đọan văn do chính LM Ðắc Lộ viết trong cuốn “Hành Trình và Truyền giáo” như sau: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ (plusieurs soldats) đi chinh phục toàn cỏi Đông phương (la conquête de tout l’Orient), đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” (Bản dịch của Hồng Nhuệ, gần cuối tr. 263, sách đã dẫn). Hồng Nhuệ, nói cho rõ là, Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, tiến sĩ Thần học, dịch một đoạn văn rất ngắn vừa nêu trên lại có nhiều lỗi. Một là ông không có khả năng tiếng Pháp (vậy thì làm sao đỗ Tiến sĩ, dẫu là TS Thần học) hoặc là ông dịch sai có hậu ý. Thật vậy: a. Cụm từ “le plus pieux royaume de monde” có nghĩa là “nước ngoan đạo nhất thế giới” chứ không phải “đạo đức nhất…” b. “Plusieurs soldats”: nhiều chiến sĩ. Hồng Nhuệ dịch là MẤY chiến sĩ, lại chú thích “chiến sĩ” là lính thừa sai, tức là các Linh mục Giám mục, chứ không phải lính chiến. Thực ra chữ quelque mới có nghĩa là mấy hay một vài. Và chữ missionares mới có nghĩa là các thừa sai. Ðọan văn trên có hai cụm từ rất đáng chú ý: plusieurs soldats phải được (!) hiểu là “lính thừa sai”! và la conquête de tout l’Orient cũng được dịch tùy tiện là “nước cha trị đến”! Cũng chính do hai cụm từ nầy và cách diễn dịch đầy tính “thời đại”; không phải lịch sử cho thấy là mà lịch sử phải được hiểu là của một vài nhà nghiên cứu, nên một người như Ðắc Lộ mà được nhà nước Việt Nam tái vinh danh! Ðể hiểu rõ thêm tại sao có sự tái vinh danh sai lầm trên tầm cở quốc gia như thế, chúng ta nên đọc một đoạn trong bài viết của ông Chương Thâu, như đã nói trên, mô tả một phần cuộc hội thảo: “…Và đến lượt, ông Nguyễn Đình Đầu đã dịch lại câu trên của A. de Rhodes đồng thời “chú thích một số từ dùng trong câu của A. de Rhodes, cũng là nhằm “đối thoại” và “biện minh” với giới nghiên cứu khoa học xã hội – nhân văn, như sau: “Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Đông và đặt dưới quyền trị vì của Đức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được Giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các Giáo Hội này” (tức là Đàng Ngoài và Đàng Trong). Ông Nguyễn Đình Đầu biện giải thêm: “Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn “chinh phục toàn phương Đông” là để cho “nước Cha trị đến”, chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. “Chinh phục” hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị. Vì ngộ nhận trên, người ta mới gán cho chữ quốc ngữ “còn có ý nghĩa chính trị” vậy!” “…Cũng vào thời gian cuối tháng 3-1993, tại một cuộc Hội Thảo “Tưởng niệm A. de Rhodes, nhân 400 năm ngày sinh của ông” do Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam tổ chức tại Hội Trường Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam, có nhiều nhà khoa học tham dự, đọc tham luận. Trong đó Giáo Sư Sử Học Đinh Xuân Lâm, một lần nữa lại đề cập “câu chữ” trên đây của A. de Rhodes và dịch lại {theo đúng văn cảnh, bối cảnh lịch sử thế kỷ 17(sic) cụm từ “plusieurs soldats” là chiến sĩ” truyền giáo, vào coi như “lần cuối cùng đính chính lại sự lầm lẫn (dịch soldat là lính chiến, là quân lính đi xâm lược) như trước đây trong một số “giáo trình lịch sử Việt Nam” đã dẫn dụng. Chính trong cuộc Hội Thảo đó của Hội Sử Học đã đưa ra nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền (Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ Văn Hóa v.v…) nhằm “khôi phục” vị trí xứng đáng cho linh mục A. de Rhodes, người đã góp phần quan trọng trong việc chế tác ra chữ Quốc ngữ cũng như một số hoạt động văn hóa (trứ tác các công trình sử học giá trị). Cũng do vậy mà hiện nay, đã có quyết định khôi phục lại tên đường phố Đắc Lộ ở thành phố Hồ Chí Minh, dựng lại “bia 1941” tại khuôn viên Thư Viện Quốc Gia ở Hà Nội v.v”. (Chương Thâu,“Nguyệt San Hiệp Nhất”, số 43, giáo phận Orange County, California, USA, tháng 7, 1996, bài viết có tựa đề: “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các cách dẫn dụng khác nhau” ). Qua hai lần hội thảo nầy chúng ta có cảm tưởng là hầu hết các nhà nghiên cứu chưa đọc mấy tác phẩm của Ðắc Lộ, đặc biệt là cuốn Hành Trình và Truyền Giáo, Lời nói đầu cuốn Từ điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày. Dưới đây tôi sẽ đưa ra sáu luận điểm để cho thấy quý vị có tên tuổi vừa nêu trên đã diễn dịch sai hai cụm từ quan trọng vừa nói: 1. Về Phương Diện Từ Ngữ**:Một danh từ có thể đổi nghĩa qua thời đại. D0 đó, thay vì sử dụng các cuốn Từ Điển hiện nay để tra cứu nghĩa của chữ SOLDAT, tôi xử dụng hai cuốn Tử điển xuất bản cùng thời mà ông Alexandre de Rhodes sinh sống (1591-1660). – Cuốn thứ nhất: Dictionnaire, Cotgrave, xuất bản năm 1611, chữ soldat có nghĩa, nguyên văn: “Soldat: m. A soldier; one that followes the warres”. – Cuốn thứ hai: Dictionnaire de L’Académie Francaise, 1st Edition (1694), chữ soldat cũng được định nghĩa như sau, nguyên văn: “Soldat: s.m. Home de guerre, qui est à la solde d’un Prince, d’un Estat, & c. La terre estoit toute couverte de soldats, il faut reprimer la licence des soldats”. Xem thế, cả hai cuốn từ điển xuất bản năm 1611 và 1694, cùng thời mà Đắc Lộ viết cuốn Hành trình và truyền giáo, cũng định nghĩa chữ soldat: giống đực, số ít, có nghĩa là binh lính, người có súng. |